TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 135/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN
Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 389/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan Th, sinh năm 1999 Địa chỉ: ấp 5, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu
2/. Bị đơn: Anh Đào Mạnh Tr, sinh năm 1998 Địa chỉ: ấp 2, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.
(Chị Th có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Tr vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 08/8/2019, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan Th trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Th xác định giữa chị và anh Tr đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục tại địa phương vào khoảng năm 2018, nhưng đến nay chị và anh Tr vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn theo chị Nguyễn Thị Lan Th xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây giữa vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Nguyên nhân chính là do anh Tr không quan tâm, chăm sóc cho vợ con, không chăm lo cuộc sống gia đình. Vợ chồng chị đã sống ly thân với nhau khoảng 5 tháng qua. Nay chị nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, không thể hàn gắn lại được, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đào Mạnh Tr.
Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Lan Th xác định trong thời gian chị và anh Tr chung sống có với nhau 01 người con chung tên Đào Đức Thiện, sinh ngày 21/02/2019, hiện cháu Thiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, chị không yêu cầu anh Tr phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Lan Th xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Đối với anh Đào Mạnh Tr: Mặc dù anh Tr đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Tr vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh Tr theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan Th là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Đào Mạnh Tr chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: Chị Th và anh Tr chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Th và anh Tr.
Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị Th và anh Tr ly thân với nhau thì người con chung tên Đào Đức Th, sinh ngày 21/02/2019 là do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị Th vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, mặc khác cháu Th còn nhỏ (hơn 9 tháng tuổi), nên cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao con cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.
Chị Th không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Về tài sản chung và nợ chung: Do chị Th không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí hôn nhân gia đình thì chị Th phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: chị Th có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Tr. Anh Tr có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
Chị Th có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Th.
Anh Tr đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Tr vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Tr.
[2] Về nội dung vụ án: Chị Th và anh Tr chung sống với nhau vào năm 2018, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, đến nay thì anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị Th và anh Tr là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.
Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị Th và anh Tr không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị Th xin ly hôn với anh Tr thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị Th và anh Tr ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Th và anh Tr là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị Th và anh Tr ly thân với nhau thì người con chung tên Đào Đức Th, sinh ngày 21/02/2019 là do chị Th trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị Th vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, mặc khác cháu Th còn nhỏ (hơn 9 tháng tuổi), nên cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao người con chung tên Đào Đức Th, sinh ngày 21/02/2019 cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.
Chị Th không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Nếu sau này anh Tr chứng minh được chị Th nuôi con, nhưng không lo lắng chăm sóc tốt cho cuộc sống của con thì anh có quyền nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Lan Th xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Th phải chịu theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị Lan Th và anh Đào Mạnh Tr là vợ chồng.
2/.Về nuôi con chung: Giao người con chung tên Đào Đức Th, sinh ngày 21/02/2019 cho chị Nguyễn Thị Lan Th tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Anh Đào Mạnh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Chị Nguyễn Thị Lan Th không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Đào Mạnh Tr.
3/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị Lan Th xác định trong thời gian chung sống anh chị không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ anh chị, khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết
4/. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003891 ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Nguyễn Thị Lan Th và anh Đào Mạnh Tr biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 135/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp yêu cầu ly hôn
Số hiệu: | 135/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về