Bản án 135/2018/HSST ngày 18/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 135/2018/HSST NGÀY 18/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 141/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Lò Văn C (Tên gọi khác: Thạo C) sinh năm: 1975 tại huyện M E, tỉnh H P, nước CHDCND Lào. Nơi cư trú: Số nhà 33, tổ 01, bản M, cụm NC, huyện M E, tỉnh H P, nước CHDCND Lào; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Thái; quốc tịch: Lào; tôn giáo: Không; đảng, đoàn thể: Không; con ông Thạo Thoong V và bà Nang Thoong V; có vợ Nang T và có 04 con; không xác định được năm sinh; tiền sự, tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 21/6/2018 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La. Có mặt.

Người phiên dịch cho bị cáo: Bà Cà Thị D, sinh năm 1986– Địa chỉ: Tổ X, phường CS, thành phố SL, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 30 phút ngày 21/6/2018, tổ công tác phối hợp giữa Công an huyện S M phối hợp với lực lượng chức năng làm nhiệm vụ trên đường tuần tra biên giới, tại khu vực bản Huổi, Mường Hung, S M phát hiện bắt quả tang Lò Văn C trú tại: bản M, cụm NC, huyện M E, tỉnh H P, nước CHDCND Lào đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn C. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon, bên trong có 48 viên nén màu hồng nghi hồng phiến. C khai số ma túy trên là hồng phiến mục đích để sử dụng. Ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động hiệu SamSung màu đen.

Ngày 23/06/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S M thành lập Hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định khối lượng, trích mẫu trưng cầu giám định số vật chứng thu giữ của Lò Văn C: 01 gói nilon bên trong có 48 viên nén màu hồng, có khối lượng 4,53 gam, trích lấy 05 viên nén màu hồng, có khối lượng 0,47 gam ký hiệu C làm mẫu giám định chất ma túy

Tại kết luận giám định số 821/KLMT ngày 28/06/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C là chất ma túy, loại chất Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,47 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 4,53 gam loại chất Methamphetamine”

Tại Cơ quan điều tra, Lò Văn C khai nhận:

Khoảng 08 giờ ngày 21/06/2018, Lò Văn C đang ở tại lán nương của gia đình, thuộc bản M, cụm NC, M E – Lào thì có một người đàn ông dân tộc Mông, Lào (không quen biết) đến hỏi mua thóc, C đồng ý và bán cho người đàn ông này khoảng 45 kg thóc, vì không có tiền nên người đàn ông này đã trả cho C 48 viên hồng phiến. Do bản thân nghiện ma túy nên C đồng ý và nhận 48 viên hồng phiến rồi cất giấu vào túi quần, mục đích để sử dụng, sau đó C đi làm nương.

Khoảng 19h cùng ngày (21/6/2018), Lò Văn C đi bộ từ lán nương gia đình thuộc bản M, cụm NC, M E, H P, Lào mang theo số ma túy trên vượt biên giới đến bản H, xã M H, huyện S M, tỉnh Sơn La để thăm người thân. Khi đến khu vực bản H, M H, S M, Sơn La thì bị lực lượng chức năng phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Nguồn gốc 4,53 gam Methamphetamine thu giữ trong vụ án Lò Văn C khai trao đổi 45 kg thóc với một người đàn ông dân tộc Mông (không quen biết) ở bên Lào. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, điều tra.

Tại cáo trạng số: 97/VKS-P1 ngày 18/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố Lò Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng đối với bị cáo và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn C (Thạo C) 03 (ba) đến 04 (bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 21/06/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật

Bị cáo Lò Văn C nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy nhưsau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội: Bị cáo Lò Văn C bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ 4,53 gam Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 20 giờ 30 phút ngày 21/6/2018, tại bản H, xã M H, huyện S M, tỉnh Sơn La; vật chứng thu giữ của vụ án; kết luận giám định loại ma túy của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu C là chất ma túy, loại chất Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,47 gam. Tổng trọng lượng của chất ma túy thu giữ được là 4,53 gam, loại chất Methamphetamine”.

Từ các căn cứ như đã nêu trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 [3] Về khung hình phạt áp dụng: Bị cáo phạm tội với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự “Heroin, Cocaine, Methamphetamin, amphetamine, MDMA hoặc XLR -11 có khối lượng từ 0,1 gam đén dưới 05 gam” có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, thuộc trường hợp nghiêm trọng.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy đinh tai khoan 5 Điêu 249 Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị phạt tiền, xét bị cáo là người có quốc tịch Lào , tài sản bị thu giữ không có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đôi vơi bị cáo.

Do bị cáo là người nước ngoài phạm tội ở Việt Nam, do đó cần áp dụng hình phạt bổ sung là trục xuất bị cáo ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau khi bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính.

 [4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước Việt Nam đối với chất ma túy, tiền chất ma túy. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo mới đảm bảo được tính răn đe và phòng ngừa chung.

 [5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

 [6] Về vật chứng vụ án:

Đối với 4,06 gam loại chất Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định, xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. luật. túy

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lò Văn C (Thạo C) phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Lò Văn C (Thạo C) 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 21/6/2018.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 37 Bộ luật hình sự 2015: Sau khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, trục xuất bị cáo ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam.

3. Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 4,06 gam loại chất Methamphetamine được niêm phong trong một chiếc phong bì do bưu điện Việt Nam phát hành còn nguyên niêm phong, mặt trước phong bì được dán mảnh giấy màu trắng, trên mảnh giấy có ghi: “Vật chứng vụ Lò Văn C – SN 1975; chỗ ở: bản M, cụm NC, huyện M E, tỉnh H P, nước CHDCND Lào, hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, gồm C1 = 4,06 gam nghi là hồng phiến + 01 mảnh nilon màu hồng + 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở”. Mặt sau phong bì, tại mép dán giáp lai có một mảnh giấy trắng dán từ trước ra sau, trên mảnh giấy co dòng chữ Cơ quan CSĐT – Công an huyện S M ngày 23/6/2018, 02 hình dấu tròn đỏ của cơ quan CSĐT – Công an huyện S M, có 01 dấu điểm chỉ ngón tay trỏ phải của Lò Văn C, chữ ký, dòng ghi họ tên của Phan Trần Hoài Linh, Lành Trung Hà, Vì Văn An, Dương Văn Nam, Vũ Trung Hậu.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, vỏ màu đen – hồng, có số IMEI: 359914/05/522799, kèm 01 sim trong máy, điện thoại đã qua sử dụng.(thu giữ của Lò Văn C).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí:

Buộc bị cáo Lò Văn C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/10/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2018/HSST ngày 18/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về