Bản án 135/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 135/2018/HS-ST NGÀY 17/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 133/2018/TLST-HS ngày 03/10/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2018/QĐXXST-HS ngày 05/10/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế T, sinh năm 1988 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT, chỗ ở: Xóm K, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 08/12/2017 Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; nhân thân: Ngày 11/9/2014 Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt 18 tháng tù về tội:“Trộm cắp tài sản”, ngày 17/05/2014 Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 10/6/2014 Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính hình thức cảnh cáo về hành vi:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt, tạm giữ ngày 21/8/2018, tạm giam từ ngày 24/8/2018 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1963; trú tại: Xóm K, xã H, huyện K, tỉnh Hà Nam; có mặt.

2. Anh Nhữ Văn T, sinh năm 1985; nơi ĐKNKTT: Tổ 10, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Tổ 16, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1981; trú tại: Xóm 4, xã V, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

2. Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1958; trú tại Xóm 5, xã L, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 21/8/2018, Nguyễn Thế T điều khiển xe máy biển kiểm soát 29.489.TL đi từ nhà đến khu vực ngã ba Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (cơ sở 2, tỉnh Hà Nam) thuộc tổ 16, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để gặp người bạn mới quen khoảng 40 tuổi không rõ lai lịch, địa chỉ tên là H. Khi gặp Hiếu, T và H bàn bạc, thống nhất góp tiền đi mua ma túy và đến nhà nghỉ T. N thuộc tổ 16, phường Lê Hồng Phong thuê phòng để sử dụng ma túy. Đến nhà nghỉ T.N, T và H gặp bà Bùi Thị Đ là quản lý nhà nghỉ và thuê chung phòng số 3 trên tầng 2 của nhà nghỉ. Khi ở trong phòng nghỉ, H nói với T:“Có tiền không đưa anh đi mua đồ về chơi”, hiểu ý H bảo góp tiền đi mua ma túy, T lấy ra 200.000 đồng đưa cho H nói:“Em chỉ có hai trăm”. H cầm tiền T đưa rồi mượn xe của T đi mua ma túy. Một lát sau, H quay lại phòng nghỉ, chốt cửa lại rồi lấy ra 02 gói giấy bạc màu vàng bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục nói với T: “Hàng đây anh em mình cùng chơi một gói, còn một gói em cầm về mà chơi”. T cầm 01 gói ma túy cất vào túi quần đang mặc rồi cùng H sử dụng gói ma túy còn lại bằng hình thức hít. Sau khi sử dụng ma túy, H nói bận việc nên đi về trước còn T ở lại phòng về sau, khi T vừa ra khỏi phòng nghỉ thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý đến kiểm tra, T tự giác lấy giao nộp cho lực lượng công an 01 gói giấy bạc màu vàng và khai nhận đó là ma túy, cất giấu để sử dụng.

Vật chứng, tài sản thu giữ của Nguyễn Thế T gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 mảnh giấy bạc kích thước (4x6)cm đã bị đốt cháy xém đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng và 01 xe máy cũ nhãn hiệu HONDA sơn màu xanh, đeo biển kiểm soát 29.489.TL.

Tại bản Kết luận giám định số 133/PC54-MT ngày 23/8/2018, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,172 gam, loại: Heroine”.

Bản cáo trạng số 142/CT-VKSPL ngày 02/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Nguyễn Thế T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thế T, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Nguyễn Thế T từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với các chứng cứ của vụ án như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21/8/2018, tại nhà nghỉ T.N thuộc tổ 16, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Thế T bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý bắt giữ quả tang khi đang cất giấu trái phép 0,172 gam Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có nhân thân xấu do có tiền sự về hành vi:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từng bị kết án về tội:“Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích); bản thân là người nghiện ma túy, nhiều lần bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”(đã hết thời hạn được coi như chưa bị xử lý vi phạm hành chính).

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tham gia phục vụ trong quân đội, có người thân (bố đẻ) được Nhà nước Capuchia tặng thưởng Huy chương hữu nghị do có thành tích làm nhiệm vụ quốc tế nên bị cáo sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự pháp luật quy định.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ nghiêm trọng, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và các chất gây nghiện trực tiếp là các hoạt động cất giữ, tàng trữ chất ma túy, gây mất trật tự, an toàn cho xã hội, làm nảy sinh tệ nạn ma túy là mầm mống, nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Do bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền, tịch thu tài sản…) đối với bị cáo.

[6] Đối với người đàn ông tên H đã cùng bị cáo thuê nhà nghỉ, đi mua, sử dụng trái phép chất ma túy, do Cơ quan điều tra không xác định được đặc điểm nhân thân, địa chỉ của người này nên chưa có cơ sở để xem xét, xử lý là có căn cứ.

Đối với nhà nghỉ T. N do anh Nhữ Văn T làm chủ cơ sở, do không thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý cơ sở kinh doanh, dịch vụ và biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, cho thuê lưu trú để người khác lợi dụng sử dụng trái phép chất ma túy trong khu vực quản lý, vi phạm quy định tại Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ nên ngày 28/8/2018, Chủ tịch UBND thành phố Phủ Lý đã ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền với số tiền 8.250.000 đồng là phù hợp quy định của pháp luật.

Đối với bà Bùi Thị là quản lý nhà nghỉ T. N, do không biết các đối tượng T và H thuê phòng để sử dụng trái phép chất ma túy nên không phạm tội, cơ quan điều tra không xem xét, xử lý là có căn cứ, đúng pháp luật.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

+ Đối với chiếc điện thoại di động Samsung thu giữ của Nguyễn Thế T, quá trình điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên sẽ xem xét trả lại cho bị cáo.

+ Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 29.489.TL, cơ quan điều tra đã xác định là tài sản hợp pháp của ông Nguyễn Văn Th (cậu ruột bị cáo), do ông Th cho bị cáo mượn để đi lại, không biết việc T đã sử dụng làm phương tiện để đi mua bán, sử dụng trái phép ma túy nên nay sẽ xem xét trả lại tài sản này cho ông Th.

+ Đối với toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói, mảnh giấy bạc đã cháy xém là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng sẽ tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/8/2018.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung đã cũ, vỏ màu trắng, có số IMEI: 355025064239674/01.

- Trả lại cho ông Nguyễn Văn Th 01(một) xe máy nhãn hiệu HODA, sơn màu xanh, đeo biển kiểm soát 29.489-TL, số máy: C50E-9676724, số khung: C50- 9676661, xe đã cũ.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong mặt trước ghi: “Mẫu vật hoàn trả QT01”, số 133/PC54-MT có chữ ký và dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) mảnh giấy bạc kích thước khoảng (4x6)cm đã bị đốt cháy xém đen.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 03/10/2018.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Nguyễn Thế T nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về