Bản án 135/2018/HNGĐ-ST ngày 03/04/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 135/2018/HNGĐ-ST NGÀY 03/04/2018 VỀ TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ LY HÔN

Ngày 03-4-2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 568/2017/TLST-HNGĐ ngày 20-12-2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 13/2018/QĐXX-ST ngày 21-3-2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Khánh V, sinh năm 1982, nơi cư trú: thôn G, xã L, thành phố N, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn K, sinh năm 1980, đăng ký hộ khẩu thường trú thôn G, xã L, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Hiện đang chấp hành án tại trại giam số 5-Bộ công an.

Tại phiên tòa có mặt chị Vũ Thị Khánh V. Anh Hoàng Văn K vắng mặt (có đơn xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15-12-2017 và trong quá trình tham gia tố tụng,nguyên đơn chị Vũ Thị Khánh V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Văn K tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau từ đầu năm 2004, nhưng đến tháng 01-2006 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc An, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm, khác biệt nhau về lối sống. Mặt khác, do anh K nghiện ma túy và đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Hiện nay anh K đang phải chấp hành án tại Đội 19, phân trại 1 trại giam số 5 - Bộ công an (huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 2014 chị và con gái đã chuyển về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ chị tại số 5/23/119 Nguyễn Tri Phương, phường Văn Miếu, thành phố Nam Định. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Hoàng Văn K.

Về con chung: Chị và anh K có 01 con chung là Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004, hiện nay cháu Nguyệt đang ở với chị. Chị V có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Nguyệt vì cháu đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh   Kiên cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị V xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05-3-2018 bị đơn anh Hoàng Văn K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Vũ Thị Khánh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 05-01-2006 tại Ủy ban nhân dân xã Lộc An, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh ham chơi nên phạm tội. Hiện nay anh đang phải chấp hành bản án 08 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Đội 19, phân trại 1 trại giam số 5 - Bộ công an (huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa). Nay anh xác định vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, quan điểm của anh nhất trí ly hôn với chị V.

Về con chung: Anh K xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004. Hiện cháu Nguyệt đang ở cùng với chị V. Anh K đồng ý để chị V nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: anh  Kiên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại biên bản xác minh ngày 16 tháng 3 năm 2018 địa phương nơi vợ chồng chị V và anh K sinh sống cung cấp: Chị Vũ Thị Khánh V và anh Hoàng

Văn K đăng ký kết hôn năm 2006 tại UBND xã Lộc An, thành phố Nam Định và đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Gia Hòa, xã Lộc An, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Chị V và anh K phát sinh mâu thuẫn do anh K sử dụng ma túy và hiện đang chấp hành án phạt tù tại trại giam số 5-Bộ công an. Về con chung chị V và anh K có 01 con chung là Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004. Từ khi anh K bị bắt thì chị V đã cùng với cháu Nguyệt đã về sinh sống ở nhà bố mẹ đẻ chị V.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 48 và Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử ly hôn giữa chị V và anh K.

Về con chung: Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự thỏa thuận của chị V và anh  Kiên giao con Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng.

Việc cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của chị V không yêucầu anh Kiên cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và công nợ chung: chị V không yêu cầu giải quyết. Do đó, không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Vũ Thị Khánh V phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Hoàng Văn K có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét xử vắng mặt anh K theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Vũ Thị Khánh V và anh Hoàng Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lộc An, thành phố Nam Định vào ngày 05-01-2006 là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm, khác biệt nhau về lối sống, anh  Kiên vi phạm pháp luật và đang chấp hành án phạt tù đã làm ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Chị V xác định tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể hàn gắn đoàn tụ được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh  Kiên cũng nhất trí ly hôn với chị V.

Xét thấy quan hệ hôn nhân của chị V và anh  Kiên mâu thuẫn đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử ly hôn giữa chị V và anh K.

[3] Về con chung:

[3.1] Chị V và anh  Kiên có một con chung là Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004, chị V có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Nguyệt, anh K cũng nhất trí giao cháu Nguyệt cho chị V nuôi dưỡng, cháu Nguyệt có nguyện vọng ở với chị V. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng vào các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự thỏa thuận của các đương sự, và giao con Hoàng Ánh Nguyệt cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng.

[3.2] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Chị V và anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị V phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị Khánh V và anh Hoàng Văn K.

2. Về nuôi con chung:

- Giao con Hoàng Ánh Nguyệt, sinh ngày 01-10-2004 cho chị Vũ Thị Khánh V trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của chị V không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Anh Hoàng Văn K có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị Khánh V phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền này được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị V đã nộp theo Biên lai số 0000786 ngày 20-12-2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Chị V nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Khánh V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Văn K có quyền kháng cá bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày tống đạt hợp lệ Bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2018/HNGĐ-ST ngày 03/04/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:135/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 03/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về