TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 135/2017/HS-ST NGÀY 16/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 144/2017/HS-ST, ngày 05/10/2017, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lê Xuân H, sinh năm: 1967; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Số nhà xx, ngõ xxx, đường NGT, phố NH, phường NB, thành phố NB, tỉnh Ninh Bình; Trình độ văn hóa: 10/10; Nghề nghiệp: Lái xe; Bố đẻ: Lê Xuân H (đã chết), mẹ đẻ: Nguyễn Thị L; Vợ: Phạm Thị T; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, Tiền sự: chưa có.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2017 tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay, Có mặt
2. Họ và tên: Đặng Đức K, sinh năm: 1971; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Phố MĐ, phường NK, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Trình độ văn hóa: 5/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Đặng Văn D (đã chết), Mẹ đẻ: Lê Thị T; Vợ: Phùng Thị Đ; Con: có 01 con sinh năm 2015; Tiền án, Tiền sự: Chưa có.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/6/2017 tại trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay, Có mặt.
NHẬN THẤY
Các bị cáo Lê Xuân H và Đặng Đức K bị Viện Kiểm sát nhân dân phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình truy tố về hành vi phạm tội như sau: Lê Xuân H và Đặng Đức K có mối quan hệ quen biết nhau từ trước và đều nghiện ma túy. Khoảng 9 giờ ngày 10/6/2017, bị cáo H một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS:16L3 – 9205 từ nhà ở phố Ngọc Hà, phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình đến lán coi cá của bị cáo K ở phố MĐ, phường NK. Bị cáo H nói với bị cáo K có 300.000 đồng và rủ K sang khu vực xã Yên Bằng, huyện ý yên, tỉnh Nam Định mua ma túy về sử dụng cùng. K đồng ý, H đưa cho K 300.000 đồng rồi điều khiển xe mô tô BKS:16L3 – 9205 chở K sang thôn Dinh tần, xã Yên Bằng, huyện ý yên, tỉnh Nam Định để mua ma túy. Đến nơi, H đứng trên bờ đê đợi, còn K đi bộ vào một nhà giáp bờ đê sông đáy đưa 300.000 đồng qua khe cửa, bên trong nhà có người đưa cho K 03 gói Heerroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng. Sau khi mua được ma túy K cầm ở tay trái rồi đi ra chỗ H chờ để đi về lán coi cá của K. Khoảng 9 giờ 30 phút, H và K đi đến khu vực đường Tôn Đức Tháng, phố 11, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình thì bị Công an phường Đông Thành phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên Công an đã đuổi theo H và K đến lán coi cá của K. Khi H dừng xe trước cửa lán, K nhìn thấy Công an thì bỏ chạy vào trong lán và ném 03 gói Heroine đang cầm ở tay xuống giường làm hai gói rơi xuống gầm giường, còn 01 gói rơi trên giường, nhưng đã bị Công an phát hiện thu giữ của K 03 gói có đặc điểm được gói bên ngoài là giấy bạc màu trắng, bên trong đều có chất bột dạng cục màu trắng. K đã khai nhận với Công an 03 gói nhỏ đó là Heroin vừa mua với giá 300.000 đồng ở thôn Dinh tần, xã Yên Bằng, huyện ý yên, tỉnh Nam Định để cùng H sử dụng. Ngoài ra Cơ quan Công an còn thu giữ của H 01 xe mô tô Honda BKS:16L3 – 9205. Cơ quan Công an tiến hành niêm phong vật chứng và đưa K, H cùng tang vật về Công an phường Ninh Khánh lập biên bản kiểm tra hành chính.
Cân xác định trọng lượng chất bột dạng cục màu trắng trong ba gói nhỏ thu của Đặng Đức K, kết quả:
- Gói thứ nhất có trọng lượng 0,06 gam, ký hiệu M1.
- Gói thứ hai có trọng lượng 0,06 gam, ký hiệu M2.
- Gói thứ ba có trọng lượng 0,035 gam, ký hiệu M3.
Tổng trọng lượng chất bột màu trắng trong ba gói ký hiệu M1, M2, M3 là 0,155 gam.
Cơ quan đã gửi toàn bộ mẫu M1, M2, M3 đi giám định.
Tại kết luận giám định số 147/KLGĐ-PC54-MT ngày 13/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:
- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1 có khối lượng 0,0571 gam; M2 có khối lượng 0,0588gam; M3 có khối lượng 0,0358gam. Tổng khối lượng chất tinh thể màu trắng trong các mẫu M1, M2, M3 gửi giám định là 0,1487 gam.
- Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1, M2, M3 gửi giám định đều là chất ma túy, loại Heroine.
Heroine là chất ma túy thuộc danh mục I. STT: 20, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.
Như vậy tổng trọng lượng Heroine Đặng Đức K, Lê Xuân H cất giữ là 0,1487 gam.
Quá trình điều tra Lê Xuân H, Đặng Đức K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản cáo trạng số 142/CT-VKS ngày 04/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Thành Phố Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Lê Xuân H, Đặng Đức K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1, Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã kết luận, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố không thay đổi bổ sung gì và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Lê Xuân H, Đặng Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Khoản 1, Điều 194; điểm p, khoản 1, đối với Lê Văn H áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3, Điều 7; Khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt các bị cáo Lê Xuân H từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2017 và Đặng Đức K từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2017. Áp dụng điều 41 BLHS, Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại cùng giấy gói ban đầu thu giữ của Đặng Đức K và Lê Xuân H. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.
XÉT THẤY
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản vi phạm hành chính; vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận Khoảng 9h30’ngày 10/6/2017, tại lán coi cá của bị cáo Đặng Đức K, Lê Xuân H, Đặng Đức K đã có hành vi cất giữ trái phép 0,1487gam heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân, đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân làm lây lan, gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Các bị cáo đều là công dân đã trưởng thành, các bị cáo đều đã từng bị Tòa án xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng các bị cáo không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, không tích cực lao động chăm lo cuộc sống cho bản thân và gia đình, các bị cáo lại có lối sống buông thả, không có ý trí rèn luyện để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Vì vậy cần buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã gây ra mới có tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo H là người đã có công với Nhà nước nên áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Mặt khác cần áp dụng những qui định có lợi cho người phạm tội theo qui định của Bộ luật hình sự năm 2015 đó là: Tại khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm; tại khoản 1, Điều 194 luật hình sự năm 1999 quy định mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm. Do vậy, nên áp dụng Khoản 3, Điều 7; khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sunG 2017 ; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để xem xét trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Trong vụ án này các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, không mang tính tổ chức. Để quyết định hình phạt tương xứng với vai trò của các bị cáo thì thấy rằng:
Đối với Lê Xuân H hiện tội phạm một cách tích cực, bị cáo là người khởi xướng và bỏ tiền của mình đưa cho K, chở K đi mua ma túy.
Đối với Đặng Đức K Là người thực hiện tội phạm một cách tích cực, K trực tiếp mua ma túy và cất giữ số ma túy từ khi mua được đến khi bị Công an phát hiện.
Do vai trò của các bị cáo là ngang nhau, nên cần áp dụng hình phạt đối với các bị cáo như nhau.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo phạm tội nhằm mục đích thoả mãn cho nhu cầu bản thân, không có mục đích vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo K khai mua của một người không quen biết, không biết là nam hay nữ qua khe cửa của một ngôi nhà ven bờ đê sông Đáy, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã tiến hành điều tra nhưng không đủ cơ sở để xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về xử lý vật chứng:
Đối với chiếc xe mô tô Honda BKS: 16L3 – 9205 thu giữ của Lê Xuân H, quá trình điều tra xác định là của chị Lê Thị H, sinh năm 1964 trú tại phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình (là chị gái của H) cho H mượn, việc bị cáo H sử dụng chiếc xe đi mua ma túy chị H không biết. Vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại chiếc xe trên cho chị H là đúng quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Số ma túy còn lại cùng phong bì niêm phong thu giữ của bị cáo H và bị cáo K, là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu, tiêu huỷ.
Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Xuân H, Đặng Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1.1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3, Điều 7; khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2017.
1.2. Áp dụng : Khoản 1 Điều 194; điểm p, khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3, Điều 7; khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Xử phạt: Bị cáo Đặng Đức K 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/6/2017.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76, Bộ Luật tố tụng Hình sự.
- Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại cùng phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật.
(Chi tiết vật chứng có đặc điểm theo biên bản giao vật chứng ngày 13/11/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Ninh Bình).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Khoản 1, 2 Điều 99 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lê Xuân H, Đặng Đức K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 16/11/2017.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 135/2017/HS-ST ngày 16/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 135/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về