TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 135/2017/HS-PT NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 149/2017/TLPT-HS ngày 16 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Trần Phước S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 58/2017/HS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Trần Phước S, sinh năm 1996 tại Tây Ninh; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; con ông Trần Phước M, sinh năm 1976 và bà Phạm Như Y, sinh năm 1979; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt vào ngày 07/02/2017, sau đó tạm giữ, tạm giam cho đến nay (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Văn T – Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên B thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh (có mặt).
Ngoài ra trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác, không có kháng cáo, kháng nghị nên Tòa không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 07/02/2017 Lê Văn Đ, sinh năm 1985, ngụ ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh rủ Hồ Văn L, sinh năm 1984, ngụ tại ấp H, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh hùn tiền mua ma túy sử dụng, Đ bỏ ra 700.000 đồng, L bỏ ra 500.000 đồng để mua ma túy. Sau đó, Đ điện thoại cho Trần Phước S hỏi mua 3 bịch ma túy với số tiền 1.200.000 thì S đồng ý và hẹn gặp tại vườn mãng cầu thuộc địa bàn ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu để mua bán ma túy. Để có ma túy bán cho Đ, S mua ma túy của người tên Quy (chưa rõ nhân thân) 01 bịch ma túy với số tiền 1.000.000 đồng, phân thành 03 bịch nhỏ để bán. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, S mượn xe mô tô 70P1 – 0943 của người bạn Trần Tú A chạy đến điểm hẹn gặp Đ, S bán 03 bịch ma túy và nhận 1.200.000 đồng thì bị bắt quả tang cùng tang vật vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 07/02/2017.
Trong quá trình điều tra, Trần Phước S còn khai nhận đã bán ma túy cho những người mua, sử dụng như sau:
Bán cho Lê Văn Đ 04 lần, mỗi lần bán 01 bịch ma túy với số tiền 500.000 đồng, vào các ngày 29/01/2017, ngày 31/01/2017, ngày 02/02/2017 và ngày 05/02/2017 tại vườn mãng cầu thuộc địa bàn ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
Bán cho Đặng Chí T, sinh năm 1992, ngụ ấp Hội An, xã Tân Hội, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh 03 lần tại nhà của Tâm cụ thể: Lần 01 cách ngày bị bắt khoảng 15 ngày, vào khoảng 21 giờ, bán 01 bịch ma túy với số tiền 300.000 đồng; lần 2 cách lần 01 khoảng 7 ngày, bán 01 bịch ma túy với số tiền 300.000 đồng; lần 03 vào khoảng 12 giờ ngày 05/02/2017, bán 01 bịch ma túy với số tiền 500.000 đồng.
Bán cho Võ Văn Q, sinh năm 1983, ngụ ấp Thạnh Nghĩa, xã Thạnh Đông, huyện Tân Châu 02 lần, mỗi lần 01 bịch ma túy với số tiền 200.000 đồng vào khoảng tháng 12 năm 2016 và tháng 2 năm 2017 tại chòi rẫy trong vườn mãng cầu thuộc địa bàn ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu.
Bán cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1994, ngụ ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu 01 lần, 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng vào khoảng tháng 2 năm 2017 tại khu vực gần trường Trung học cơ sở Tân Phú C.
Bán cho đối tượng Chuột (không rõ nhân thân, địa chỉ) 01 lần, 01 bịch ma túy với số tiền 300.000 đồng tại khu vực gần cây xăng Nam Trung thuộc ấp Tân Xuân, xã Tân Phú, huyện Tân Châu.
Đối với Đặng Chí T: Khoảng 09 giờ ngày 05/02/2017, Lê Văn Đ điện thoại cho Đặng Chí T hỏi mua 01 bịch ma túy với số tiền 300.000 đồng thì T đồng ý bán và hẹn gặp tại khu vực trạm xe buýt gần bến xe Tân Châu để mua bán. Sau đó T gặp S mua 01 bịch ma túy với số tiền 500.000 đồng, phân ra thành 02 bịch nhỏ, 01 bịch bán với giá 300.000 đồng, 01 bịch bán với giá 200.000 đồng và rủ S cùng đi bán ma túy cho Đ thì S đồng ý nên T đưa cho S giữ bịch ma túy 300.000 đồng. T mượn xe mô tô không rõ biển số của người bạn tên Tuấn (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) chở S đến gặp Đ tại trạm xe buyt, S đưa cho Đ 01 bịch ma túy, Đ trả tiền cho T 300.000 đồng. Khi hành vi phạm tội bị phát hiện, Đặng Chí T bỏ trốn đến ngày 20/6/2017 thì bị bắt theo lệnh truy nã.
Kết quả giám định: Tại kết luận giám định số 25/MT-2017 ngày 09/02/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch ni lon được hàn kín 2 đầu kí hiệu M1 (thu của Lê Văn Đ) là chất ma túy, tên gọi Methamphetamine trọng lượng 0,2345 gam, sau giám định còn lại 0,2006 gam. Tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nilon được hàn kín hai đầu ký hiệu M2 (thu của Hồ Văn L) có chứa chất ma túy, tên gọi Methamphetamine trọng lượng 0,0912 gam, sau giám định còn lại 0,0568 gam.
Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:
- Khi bị bắt quả tang thu giữ của Lê Văn Đ 02 bịch nilon được hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong vào phong bì thư có chữ ký của Lê Văn Đ, ký hiệu M1);
- Thu giữ trên người Hồ Văn L 01 bịch nilon được hàn kín hai đầu bên trong có chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong vào phong bì thư có chữ ký của Hồ Văn L, ký hiệu M2).
- Số tiền 1.200.000 đồng.
- 01 xe mô tô biển số 70P1-0943, số máy: CT 100E133524, tài sản của anh Trần Hồng A.
- 01 điện thoại di động LVMobile, màu xanh số Imel: 8160511 của Trần Phước S.
- 01 ống nhựa đã qua sử dụng.
- 01 bình nhựa đã qua sử dụng dùng để sử dụng trái phép chất ma túy.
- 06 bịch nilon được hàn kín 01 đầu.
Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2017/HS-ST ngày 12 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh đã xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Phước S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Phước S 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành án tính từ ngày 07/02/2017.
Bản án còn tuyên về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Đặng Chí T; biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 15 tháng 9 năm 2017, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đ diện Viện kiểm sát đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Phước S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Mức án sơ thẩm tuyên nặng, bị cáo xin giảm nhẹ, đề nghị xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự thú các lần phạm tội trước đó. Tại phiên tòa, bị cáo cung cấp thêm tình tiết mới là gia đình bị cáo nộp tiền thu lợi bất chính, án phí, gia đình bị cáo có công với cách mạng, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt.
Lời nói sau cùng của bị cáo: xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, trong phần tranh luận, Kiểm sát viên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội, giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo có cung cấp tình tiết mới là gia đình bị cáo nộp 3.500.000 đồng tiền thu lợi bất chính sung quỹ Nhà nước.
[2] Bị cáo Trần Phước S không nghiện ma túy nhưng để có tiền tiêu xài cá nhân, từ tháng 12/2016 đến ngày 07/02/2017 bị cáo đã nhiều lẩn (11 lần) thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Lê Văn Đ, Hồ Văn L, Đặng Chí T, Võ Văn Q, Nguyễn Văn T và giúp sức cho Đặng Chí T bán ma túy 01 lần cho Lê Văn Đ thì bị bắt quả tang cùng tang vật là 0,3257 gam ma túy loại Methamphetamine vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 07/02/2017 tại ấp Tân Lập, xã Tân Phú, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền về ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm quy kết hành vi của bị cáo Trần Phước S thực hiện đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự khai ra các lần phạm tội trước đó, là tình tiết quy định tại điểm o, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thấy rằng:
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo nộp 3.500.000 đồng để sung quỹ nhà nước là nộp lại số tiền thu lợi bất chính, không được xem xét là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự như luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm, bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Phước S; giữ nguyên bản án sơ thẩm; phạt bị cáo Trần Phước S 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/02/2017.
Ghi nhận bị cáo đã nộp số tiền thu lợi bất chính là 3.500.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003647 ngày 23/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp ụng Điều 98, 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự, bị cáo phải chịu 200.000 đồng .
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 135/2017/HS-PT ngày 29/11/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 135/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về