TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 134/2021/HS-PT NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Vào ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 176/2021/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Lê Vũ C. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 709/2021/QĐXXPT-HS ngày 23 tháng 02 năm 2021.
* Bị cáo có kháng cáo:
Lê Vũ C, sinh năm: 1974, tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lê Vũ D (s), con bà: Trịnh Thị P (s). Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ là Hoàng Thị T và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏ nhất sinh năm 2006).
Tiền án, tiền sự: Không:
Nhân thân: Năm 2013, bị TAND quận Đ, TP. Hà Nội xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có mâu thuẫn với nhau trong việc sử dụng vật liệu xây dựng, nên khoảng 6 giờ 30 phút ngày 09/12/2019, tại tầng 15 công trình xây dựng G8 Tp. Đà Nẵng đã xảy ra sự việc cãi nhau giữa anh Phạm Văn Q và chị Nguyễn Thị S. Lúc này Trịnh Đình H đang đứng ở gần đó đi đến chỗ anh Q, hai bên thách thức, xô đẩy nhau. Thấy H và anh Q cãi nhau, Lê Đình S (là người làm cùng tổ với H) đang làm gần đó đi đến can ngăn rồi quay lại vị trí cũ để làm việc thì S gặp Hồ Văn Đ và Hồ Văn P cùng một người thanh niên bên nhóm thợ Nghệ An (chưa rõ lai lịch) đi đến có mang theo túi đồ đựng dụng cụ xây dựng và thước nhôm cãi nhau với S. P đưa tay định đánh S thì S dùng tay đánh vào mặt P một cái thì bị Đ, P và người thanh niên ép S vào góc tường dùng tay, chân, thước nhôm đánh. Thấy S bị đánh trong tư thế ngồi xổm, hai tay che đầu, mặt cúi xuống đất, H chạy đến bãi cát nhặt cái xẻng (lưỡi bằng kim loại, cán bằng gỗ, dài khoảng 1,2m) của mình rồi chạy đến. H cầm cái xẻng bàng hai tay đứng phía sau Đ đánh một cái theo hướng từ trên xuống dưới, theo phương thẳng đứng, phần lưỡi xẻng trúng vào đỉnh đầu bên trái của Đ gây thương tích, đánh xong H vút xẻng xuống sàn rồi chạy sang khu vực thang máy đứng.
Sau khi H đánh anh Đ xong bỏ đi, thì Lê Vũ C cùng Phạm Văn V đi từ phía hành lang đến, thấy S bị Đ và P đánh nên C xông vào dùng tay đấm hai cái trúng vào vùng đầu, cổ của P, còn S vùng dậy nhặt cây thước nhôm do nhóm của P làm rơi, cầm bằng tay phải đánh P hai cái theo hướng từ trên xuống, từ phải sang trái, P đưa tay trái lên đỡ thì bị gây thương tích. Tiếp đó, S nhặt một cái xẻng gần đó đuổi theo P thì anh P nhặt một cục gạch nên S không đuổi theo nữa. Khi được mọi người hô hoán can ngăn thì hai nhóm dừng lại, Đ và P được đưa đi bệnh viện cấp cứu.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 30 ngày 05/02/2020 của Trung tâm pháp y thành phố Đà Nẵng đã kết luận đối với Hồ Văn P:
Chấn động não đã điều trị, hiện tại bình thường; Gãy xương trụ tay trái đã điều trị phẫu thuật. Hiện tại xương can tốt, không ngắn chi, vận động cẳng tay bàn còn hạn chế ít động tác do đau, tỷ lệ phần trăm thương tích hiện tại là 13%.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 80 ngày 06/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ An đã kết luận đối với Hồ Văn Đ:
+ Vỡ lún xương hộp sọ, tụ máu ngoài màng cứng vùng đỉnh đầu bên trái, đã phẫu thuật lấy mảnh xương vỡ và lấy máu tụ. Hiện tại khuyết xương hộp sọ đáy chắc đỉnh đầu bên trái.
+ Máu tụ ngoài màng cứng vùng đỉnh đầu bên trái đã phẫu thuật lấy máu tụ, hiện tại không còn hình ảnh máu tụ.
+ Một sẹo vết thương trùng sẹo phẫu thuật nằm dọc đỉnh đầu bên trái, bờ mép gọn, có khả năng do vật sắc hoặc vật tày có cạnh gây nên.
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 26%.
Tại Cơ quan điều tra, Trịnh Đình H, Lê Đình S và Lê Vũ C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu qua điều tra đã thu thập.
Cáo trạng số 47/CT-VKS-P2 ngày 09 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Trịnh Đình H về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của BLHS. Truy tố các bị cáo Lê Đình S và Lê Vũ C về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quy định:
Tuyên bố: Bị cáo Lê Vũ C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51: Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Lê Vũ C 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Thời gian thi hành án kể từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17 tháng 12 năm 2020, bị cáo Lê Vũ C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử thấy đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 6 giờ 30 phút ngày 09/12/2019 tại Tầng 15 công trình xây dựng G8 thành phố Đà Nẵng, khi thấy Lê Đình S bị nhóm công nhân, gồm: Hồ Văn P, Hồ Văn Đ và một thanh niên chưa xác định lai lịch ép vào tường đánh, nên Trịnh Đình H đã lấy một cái xẻng (lưỡi bằng kim loại, cán gỗ, dài khoảng 1,2m) đánh một cái vào đầu Hồ Văn Đ, gây thương tích 26%. Còn Lê Đình S, sau khi được Lê Vũ C dùng tay hỗ trợ đánh Hồ Văn P thì S nhặt được cây thước nhôm (kích thước 89cm x 05cm) đánh trúng vào tay trái của Hồ Văn P, gây thương tích 13%.
Với hành vi, hậu quả nêu trên, án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Trịnh Đình H phạm tội “Giết người”; các bị cáo Lê Vũ C, Lê Đình S phạm tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Lê Đình Vũ không kháng cáo. Ngày 17/12/2020, bị cáo Lê Đình S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đến ngày 21/02/2021, bị cáo Lê Đình S rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Bị cáo Lê Vũ C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
[1]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Vũ C, nhận thấy: Bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 06 năm. Án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường toàn bộ thiệt hại, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn; có nhiều người có công với nước. Mặt khác người bị hại Hồ Văn P cũng có một phần lỗi do có những lời lẽ đe dọa các bị cáo. Trong vụ án này bị cáo Lê Đình S là người trực tiếp gây thương tích cho bị hại P, còn Lê Vũ C là người giữ vai trò giúp sức cho bị cáo S, nên án sơ thẩm xử phạt bị cáo C 09 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ, vai trò của bị cáo trong vụ án và hậu quả do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo.
[2]. Xét kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Lê Vũ C, nhận thấy: Bị cáo Lê Vũ C có nhân thân xấu: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nên án sơ thẩm không cho bị cáo được hưởng án treo là đúng quy định pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt nào mới, nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3]. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4]. Do kháng cáo của bị không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Vũ C; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Tuyên bố: Bị cáo Lê Vũ C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự; Xử phạt: Bị cáo Lê Vũ C 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Vũ C Vũ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm được thực hiện theo Quyết định của của Bản án hình sự sơ thẩm số 69/2020/HSST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 134/2021/HS-PT ngày 09/03/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 134/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về