TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 134/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 132/2019/TLST-HS ngày 01/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139/2019/QĐXXST-HS ngày 08/10/2019 đối với bị cáo:
Đặng Vũ H, sinh năm 1985 tại Hà Nam; Nơi ĐKHKTT: Tổ 1, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; chỗ ở: Không có nơi cư trú rõ ràng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Q và bà Đỗ Thị N; có vợ là Lê Thị L, sinh năm 1993 và 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29/12/2003, Tòa án nhân dân thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng cải tạo không giam giữ về tội:“Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 31/01/2013 Chủ tịch UBND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng. Ngày 18/7/2016, Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt vi phạm hành chính 3.500.000 đồng về hành vi:“Hủy hoại tài sản của người khác”; bị bắt, tạm giữ ngày 28/8/2019, tạm giam từ ngày 06/9/2019 đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Hoàng Tuấn A, sinh năm 1980; nơi công tác: Công an phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.
2. Anh Trần Trung T, sinh năm 1979; nơi công tác: Công an phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.
3. Chị Lê Thị L, sinh năm 1993; trú tại: Tổ 1, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Chị Đặng Thanh N, sinh năm 1981; trú tại: Tổ 1, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; có mặt.
2. Chị Trần Thị Thùy L, sinh năm 1995; trú tại: Tổ 3, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ ngày 28/8/2019, chị Lê Thị L đi làm về đến nhà trọ của mình tại số 44, ngõ 296, đường N, thuộc tổ 3, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thấy cửa phòng trọ bị khóa nên gọi điện thoại cho chồng là Đặng Vũ H về mở cửa để vào nhà nấu cơm, tắm giặt. Một lát sau H đi về mở cửa cho chị L nhưng sau đó bỏ ra ngoài khóa cửa nhốt chị L ở phía trong. Thấy vậy, chị L gọi điện cho H để về mở cửa nhưng H không về nên chị L đã gọi điện thoại cho chị Đặng Thanh N là chị gái của H nhờ gọi thợ sửa khóa đến mở cửa. Khi H về nhà thấy cửa mở, H đã chửi bới, đe dọa chị L làm cho chị L sợ hãi phải bỏ chạy sang nhà hàng xóm để tránh và gọi điện trình báo nhờ Công an phường H, thành phố Phủ Lý xuống giải quyết. Nhận được tin báo, đồng chí Đỗ Văn Đ Trưởng Công an phường H đã phân công Thiếu tá Hoàng Tuấn A và Thiếu tá Trần Trung T là cán bộ đang trong ca trực, mặc trang phục cảnh sát nhân dân xuống nhà chị L để nắm bắt tình hình và giải quyết vụ việc. Khi đến nơi, thấy H đang có hành vi chửi bới, đe dọa chị L, anh Hoàng Tuấn A yêu cầu H chấm dứt hành vi chửi bới, đe dọa và mở cửa cho chị L vào nhà thì H quay sang chửi bới, lăng mạ, xúc phạm anh T và anh Tuấn A. H dùng tay chỉ vào mặt anh T nói: “Đ.mẹ chúng mày, ai gọi chúng mày xuống, chúng mày là công an, công an là cái đéo gì”, anh T và anh Tuấn A yêu cầu H không được dùng tay chỉ vào mặt, chửi bới, xúc phạm người khác và đi về trụ sở Công an phường H để làm việc thì H không chấp hành, liên tục chửi bới và chỉ tay vào mặt anh T thách thức, nói: “Mày bắt tao đi”. Khi anh T gạt tay H đang chỉ vào mặt mình ra thì bị H dùng tay phải đấm vào mặt, sau đó H lao vào dùng chân đạp vào người anh T. Thấy H quá manh động, anh Tuấn A lao vào ôm H từ phía sau để khống chế thì bị H dùng miệng cắn vào tay làm cho mu bàn tay phải của anh Tuấn A bị rách da, chảy máu. H tiếp tục dùng tay phải túm áo anh Tuấn A giằng kéo và giật đứt một chiếc cúc áo. Sau đó, được sự tăng cường, hỗ trợ kịp thời của lực lượng Công an phường H và quần chúng nhân dân anh Trần Trung T và anh Hoàng Tuấn A đã khống chế được Đặng Vũ H, đưa về trụ sở Công an phường H, thành phố Phủ Lý để lập biên bản vi phạm theo quy định của pháp luật.
Vật chứng, tài sản thu giữ của vụ án: 01 chiếc cúc áo bằng kim loại màu vàng, hình tròn, đường kính 1,5cm, dập nổi hình ngôi sao, bông lúa được gắn trên trang phục công an nhân dân.
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của anh Trần Trung T ngày 28/8/2019 xác định: Tại vùng má dưới bên phải có vết hơi màu đỏ, không chảy máu, không sưng tím; tại vị trí mạn sườn bên phải qua kiểm tra không có vết gì; tại vị trí áo mặc bên ngoài anh T trình bày đã phủi sạch bụi.
Tại bản kết luận giám định số 122/19/TgT ngày 18/9/2019 đối với thương tích của anh Hoàng Tuấn A, Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận:“Sẹo kích thước nhỏ mu bàn tay phải, không ảnh hưởng chức năng: 2%, các vết da đổi màu không quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 02%”.
Bản cáo trạng số 136/CT-VKS-PL ngày 30/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Đặng Vũ H về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý thực hành quyền công tố giữ nguyên quan điểm không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo Đặng Vũ H, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt Đặng Vũ H từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra, Đặng Vũ H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi chửi bới, xúc phạm, hành hung, cản trở người thi hành công vụ như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Vũ H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ của vụ án được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa như biên bản phạm tội quả tang; biên bản khám nghiệm hiện trường; bản ảnh, sơ đồ hiện trường; báo cáo vụ việc, đơn đề nghị, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định thương tích, lý lịch tư pháp của bị cáo cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 18 giờ ngày 28/8/2019, nhận được tin báo Đặng Vũ H có hành vi chửi bới, đe dọa vợ mình là chị Lê Thị L tại tổ 3, phường H, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, Công an phường H, thành phố Phủ Lý đã phân công các anh Hoàng Tuấn A và Trần Trung T là cán bộ đang trong ca trực, mặc trang phục cảnh sát nhân dân đến nhà chị L để nắm bắt tình hình và giải quyết vụ việc. Mặc dù biết anh Hoàng Tuấn A và anh Trần Trung T là cán bộ chiến sỹ công an đang thi hành nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự nhưng Đặng Vũ H vẫn dùng lời lẽ thô tục chửi bới, xúc phạm, thách thức lực lượng Công an đồng thời có hành vi dùng tay đấm vào mặt, dùng chân đạp vào người anh T; dùng miệng cắn vào mu bàn tay phải và giật đứt chiếc cúc áo trang phục cảnh sát đang mặc của anh Tuấn A nhằm cản trở việc thi hành công vụ của lực lượng công an phường H. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; có nhân thân xấu do đã từng bị kết án về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi:“Hủy hoại tài sản của người khác” và đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (đều đã được xóa án tích và hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính).
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có thời gian tham gia phục vụ trong quân đội; có bố đẻ là bệnh binh; bố, mẹ đẻ đều là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên sẽ được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính được pháp luật bảo vệ. Cụ thể trong vụ án, bị cáo đã có hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn, bình thường của lực lượng công an nhân dân khi đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hành vi dùng lời lẽ xúc phạm, chửi bới sau đó hành hung cán bộ, chiến sỹ công an đang thi hành nhiệm vụ của bị cáo đã gây cản trở việc thi hành công vụ của lực lượng công an nhân dân, làm giảm hiệu quả hoạt động quản lý hành chính Nhà nước, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật và gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Do hành vi của bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường kỷ cương, luật pháp nên cần có hình phạt nghiêm minh, tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm bị cáo đã thực hiện và nhân thân xấu của bị cáo mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
[6] Đối với hành vi hành hung gây thương tích làm tổn hại 02% sức khỏe cho anh Hoàng Tuấn A của bị cáo, do quá trình điều tra anh Hoàng Tuấn A không có yêu cầu, đề nghị xử lý bị cáo về mặt hình sự nên Cơ quan điều tra đã không xem xét, xử lý đối với bị cáo về tội: “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Do quá trình điều tra và tại phiên tòa, anh Hoàng Tuấn A, anh Trần Trung T và chị Lê Thị L không có đề nghị gì về bồi thường dân sự và tổn thất về mặt tinh thần nên trách nhiệm dân sự trong vụ án sẽ không đặt ra xem xét, giải quyết.
[8] Về vật chứng đã thu giữ: Đối với 01 chiếc cúc áo trang phục cảnh sát đã thu giữ là tài sản hợp pháp của anh Hoàng Tuấn A nay trả lại cho anh Tuấn A.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự:
- Tuyên bố bị cáo Đặng Vũ H phạm tội:“Chống người thi hành công vụ”.
- Xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 28/8/2019.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho anh Hoàng Tuấn A 01 (một) chiếc cúc áo bằng kim loại màu vàng, hình tròn, đường kính 15mm, một mặt có dập nổi hình ngôi sao, bông lúa, chữ CA. Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 02/10/2019.
3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Danh mục án phí, lệ phí Tòa án theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đặng Vũ H nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 134/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 134/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về