TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 134/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2019 VỀ LY HÔN, CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 02 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 387/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2019/QĐXX-ST ngày 10 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 118/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 24 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, thành phố H; Vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Trần Văn U; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện T, thành phố H;
Hiện đang chấp hành án tại đội 11, phân trại số 02 - Trại giam Xuân Nguyên, thành phố H; Vắng mặt có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Phạm Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Trần Văn U trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H vào ngày 01 tháng 11 năm 2017. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh U tại thôn T, xã T, huyện T, thành phố H. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một năm đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh U ham chơi bời mắc nghiện ma túy đá chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh U vẫn không thay đổi từ đó mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng và đến cuối năm 2018 anh Trần Văn U vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xử phạt 06 tháng tù về tội bắt giữ người trái phép và đến ngày 22/02/2019 anh Trần Văn U phải đi chấp hành án tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố H, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn U.
Về con chung: Chị Phạm Thị T trình bày Chị và anh Trần Văn U có 02 con chung tênTrần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017. Khi ly hôn chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi cả hai con chung cho đến khi hai con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Hiện nay anh Trần Văn U đang chấp hành án phạt tù nên để chị và anh Trần Văn U tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn là anh Trần Văn U hiện đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố H vắng mặt, song đã có lời khai trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn U trình bày anh và chị Phạm Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào năm 2017 và có sinh được hai con chung. Trong quá trình chung sống do anh vi phạm pháp luật và phải chấp hành án tại trại giam Xuân Nguyên, thành phố H từ tháng 02/2019 nên vợ chồng không còn tình cảm, nay chị T quyết tâm xin ly hôn anh đồng ý.
Về con chung: Anh Trần Văn U trình bày vợ chồng có 02 con chung tên Trần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017, hiện nay anh đang chấp hành án tại trại giam nên anh đồng ý để chị T trực tiếp nuôi cả hai con chung khi nào anh chấp hành án xong sẽ về thỏa thuận việc nuôi con chung với chị T sau.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Anh Trần Văn U trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Phạm Thị T, bị đơn anh Trần Văn U đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a khoản 1, Điều 35; Điều 147; khoản 2, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự và các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Phạm Thị T được ly hôn anh Trần Văn U; Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao 02 con chung tên Trần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017, cho đến khi cả hai con chung trưởng thành đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn U thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
Các tài liệu, chứngcứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Giấy khai sinh của con; Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thị T; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị T vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Trần Văn U hiện đang chấp hành án tại đội 11- Phân trại số 02-Trại giam Xuân Nguyên, Thành phố H, vắng mặt có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị T và anh Trần Văn U kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh U ham chơi bời vi phạm pháp luật đang chấp hành án tại trại giam Xuân Nguyên, thành phố H, nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2019 đến nay không còn quan tâm nhau. Nay chị Phạm Thị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh U không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết xin được ly hôn anh Trần Văn U. Anh Trần Văn U thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn nay chị T xin ly hôn anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên anh đồng ý ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh Trần Văn U đều vắng mặt có lý do. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T, cho chị Phạm Thị T được ly hôn anh Trần Văn U.
[3]. Về con chung: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn U thống nhất trình bày: Vợ chồng có 02 con chung tên Trần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017. Khi ly hôn chị Phạm Thị T đề nghị được tiếp tục nuôi con chung, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh thể hiện từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay hai con chung do chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, mặt khác anh U hiện nay đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Nguyên, thành phố H. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con tên Trần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017 cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị T trình bày về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh Trần Văn U tự thỏa thuận giải quyết, anh Trần Văn U vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung.
[5]. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị T và anh Trần Văn U thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này.
[6] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Phạm Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a khoản 1, Điều 35; Điều 147; khoản 2, Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự và các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình ; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Phạm Thị T được ly hôn anh Trần Văn U.
2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Trần Phạm Tường V, sinh ngày 02/7/2016 và Trần Phạm Khánh M, sinh ngày 23/9/2017, cho chị Phạm Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002568, ngày 21 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố H. Chị Phạm Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 134/2019/HNGĐ-ST ngày 02/08/2019 về ly hôn, con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 134/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về