Bản án 133/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 133/2020/HS-ST NGÀY 04/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 152/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh năm 1991, tại Nam Định. Nơi cư trú: tổ 30, ấp P Hòa, xã L, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: sống lang thang. Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn K và bà Nguyễn Thị Q; bị cáo có vợ là Ngô Trinh N (sinh năm 1994) và có 02 con (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2020). Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 28/7/2020 theo Quyết định tạm giữ số 272/QĐ- CSĐT(TH) của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch. Hiện, bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện Nhơn Trạch theo Quyết định tạm giam số: 169/2020/HSST- QĐTG ngày 13/11/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch. (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại: Anh Phạm Thành T2, sinh năm 1990 (vắng mặt) Nơi đăng ký HKTT: ấp C, xã C2, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở hiện nay: khu phố M, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

+ Anh Võ Ngọc T3, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố M, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

+ Anh Huỳnh Tấn G, sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp 5, xã L, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

+ Anh Trần Văn N, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ ngày 24/7/2020, Vũ Văn T và Mai Hữu P đi ngang qua phòng trọ của anh Phạm Thành T2 thấy khóa cửa bên ngoài nên T rủ P lẻn vào phòng trọ của anh T2 để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 02 giờ ngày 25/7/2020, P dùng điện thoại di động Nokia, màu vàng, sim số 0346292049 gọi điện thoại vào sim số 84.983.891.785 cho đối tượng tên K (chưa rõ nhân thân) là người ở cùng phòng trọ rủ K đi trộm cắp tài sản thì Khắp nói chờ T cầm bình gas mini mới về rồi đi. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 25/7/2020, Vũ Văn T đưa Bình gas mini bỏ vào túi xách màu xanh đưa cho P, P mang theo 01 đầu khò cho vào túi xách rồi T điều khiển xe mô tô Dream (không rõ biển số) chở P đến phòng trọ của anh Phạm Thành T2. Khi đến nơi, T dừng xe bên ngoài cảnh giới, còn P đi vào và dùng bình gas và đầu khò phá ổ khóa cửa phòng trọ của anh T2 rồi lẻn vào trộm cắp 01 máy tính bảng hiệu Ipad Air và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1- 603.27. Sau đó, P lục tìm thấy chìa khóa xe mô tô biển số 60C1-603.27 rồi dẫn xe mô tô trên ra ngoài nổ máy, điều khiển đem theo chiếc Ipad Air về phòng trọ ở khu phố M, thị trấn Hiệp P, huyện Nhơn Trạch thì gặp T và Khắp đang ở đây. T giữ Ipad Air và sau đó Khắp tháo 02 yếm chắn gió phía trước của xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27 rồi đem xe mô tô đi bán cho người không rõ nhân thân được được 2.500.000 đồng và mua ma túy về cho cả bọn sử dụng hết. Sau khi phát hiện mất tài sản, ngày 25/7/2020, anh T2 đã báo Công an thị trấn Hiệp P biết sự việc. Đến ngày 27/7/2020, T và P mang chiếc Ipad Air đến tiệm điện thoại Giang Mobile thuốc ấp 2, L để chạy lại chương trình Ipad Air. Đến 22 giờ 10 phút ngày 27/7/2020, đội cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an huyện Nhơn Trạch phối hợp với Công an thị trấn Hiệp P kiểm tra hành chính phòng trọ thì phát hiện bắt giữ T, P và thu giữ 02 yếm chắn gió của xe mô tô biển số 60C1-603.27 bị tháo rời, còn K đã bỏ chạy thoát. Qua làm việc thì T và P khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đến ngày 29/7/2020, Công an thị trấn Hiệp P phát hiện thu giữ xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27 đang dựng bên lề đường thuộc khu phố P Lai, thị trấn Hiệp P chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch xử lý (Bút lục số 62-76, 85-95, 100-115, 141-165).

- Tang vật vụ án:

+ 01 máy tính bảng Ipad Air đã qua sử dụng, 01 ổ khóa màu vàng hiệu Alex đã bị biến dạng; 02 yếm chắn gió xe mô tô màu đỏ đen, biển số 60C1-603.27; 01 xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27 (đã trả cho chủ sở hữu) (Bút lục số 117-119).

+ 01 USB: chứa nội dung ghi hình bị can Mai Hữu P và Vũ Văn T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh T2; 01 bộ khò gas; 01 điện thoại di động Nokia màu vàng (thu giữ của Mai Hữu P) và 01 điện thoại di động Samsung màu xám (thu giữ của Vũ Văn T).

+ 01 chìa khóa xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27;

01 túi xách, màu xanh; xe mô tô Dream (không rõ biển số) không thu hồi được.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 183/BB.HĐĐG/2020 ngày 30/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Nhơn Trạch kết luận: 01 xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27, giá trị sử dụng còn lại 50%, trị giá 16.000.000 đồng; 01 máy tính bảng hiệu Ipad Air, giá trị sử dụng còn lại 20% có trị giá 1.600.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 17.600.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 140/CT-VKS-NT ngày 05 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch đã truy tố Vũ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của P, bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, khung hình phạt, điều luật áp dụng như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T mức án từ 12 (mười hai) tháng tù đến 14 ( mười bốn) tháng tù.

Vật chứng: Đề nghị tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng của Mai Hữu P và 01 điện thoại di động Samsung màu xám của Vũ Văn T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ khò gas (gồm 01 bình gas mini, 01 đầu khò) sim điện thoại Viettel số 0346292049 của Mai Hữu P và sim điện thoại Viettel số 034.552.8927 của Vũ Văn T là công cụ, phương tiện để dùng vào việc phạm tội.

(Số vật chứng trên hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2020).

Đối với đối tượng K là người tham gia trộm cắp tài sản cùng T và P, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Mai Hữu P là đồng phạm trong vụ án, do P đã chết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch đã ra quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với bị can Mai Hữu P theo quy định.

- Tóm tắt lời khai của đồng phạm Mai Hữu P có trong hồ sơ vụ án như sau:

Tối 24/7/2020 P cùng T trên đường đi chơi về thì phát hiện một phòng trọ khóa cửa ngoài và sau đó P cùng với T, Khắp ngồi lại với nhau để T hành tổ chức hành vi trộm cắp tài sản. Khoảng 2 giờ sáng ngày 25/7/2020 T trở về nhà trọ đưa cho P một cái đầu khò và một bình gas màu vàng và kêu P đi khò để T canh chừng, P vào phòng trọ lấy 01 cái Ipad Air và 01 chiếc xe máy hiệu Yamaha mà đỏ đen đem về nhà cho T cất cái Ipad Air và Khắp tháo hết phần vỏ phía trước xe đem đi bán. Sáng ngày 26/7/2020 Khắp mới quay về phòng trọ, Khắp bán xe được 2.500.000đồng không chia tiền mà để mua đồ ăn và mà túy về cho cả 3 sử dụng. Ngày 27/7/2020 T chở P đến tiệm điện thoại có tên Giang Mobile thuộc ấp 2, xã L để chạy lại chương trình chiếc Ipad Air nhằm mục đích bán hoặc cầm cố lấy tiền tiêu xài. Đến tối ngày 27/7/2020 lực lượng Công an thị trấn Hiệp P T hành kiểm tra hành chính phòng trọ thì phát hiện bắt giữ T, P và thu giữ 02 yếm chắn gió của xe mô tô biển số 60C1-603.27 bị tháo rời, còn Khắp đã bỏ chạy thoát. Quá trình điều tra P đã thành khẩn khai báo và nhận thức hành vi của mình là hoàn toàn sai trái và vi phạm pháp luật.

- Tóm tắt lời khai của bị hại anh Phạm Thành T2 có trong hồ sơ vụ án như sau:

Khong 07 giờ ngày 23/7/2020 anh cùng vợ đóng cửa phòng trọ tại Khu phố Mỹ Khoan, thị trấn Hiệp P để về nhà tại xã Cẩm Đường, huyện Long Thành. Trước khi đi anh có khóa cửa bằng ổ khóa chống trộm hiệu Alex màu vàng, đến khoảng 08 giờ ngày 25/7/2020 thì được anh Võ Ngọc T3 sống sát phòng trọ đã điện thoại cho anh T2 báo phòng anh bị kẻ gian phá khóa để trộm cắp tài sản. Anh về phòng trọ và phát hiện mất 01 chiếc Ipad Air 2 màu xám và 01 chiếc mô tô hiệu Yamaha BKS 60C1- 603.27 màu đỏ đen và anh đến Công an thị trấn Hiệp P trình báo sự việc. Anh đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch trả lại tài sản là: 01 máy tính bảng Ipad Air đã qua sử dụng, 01 ổ khóa màu vàng hiệu Alex đã bị biến dạng; 02 yếm chắn gió xe mô tô màu đỏ đen, biển số 60C1- 603.27; 01 xe mô tô Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27 (Bút lục số 117-119) anh không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin vắng mặt khi Tòa án xét xử.

- Tóm tắt lời khai của người làm chứng Võ Ngọc T3 có trong hồ sơ vụ án như sau:

Khong 07 giờ ngày 25/7/2020 anh thấy phòng trọ của anh T2 mở cửa và được biết vợ chồng anh T2 đã về quê vào ngày 23/7/2020 nên anh đã điện thoại báo sự việc cho anh T2 biết. Anh T2 có nhờ anh kiểm tra tài sản trong phòng trọ thì phát hiện chiếc xe máy và Ipad không còn trong phòng, giá trị tài sản cụ thể bao nhiêu anh không biết và anh có T2 báo cho chủ nhà trọ biết. Sau này anh T2 có trình báo sự việc mất trộm tài sản đến Công an thị trấn Hiệp P xử lý theo quy định.

- Tóm tắt lời khai của người làm chứng Trần Văn Nhơn có trong hồ sơ vụ án như sau: Sáng ngày 29/7/2020 trên đường đi làm đến địa phận khu phố P Lai, thị trấn Hiệp P anh N phát hiện có một chiếc xe máy biển số 60C1-603.27, nhãn hiệu Yamaha, loại Jupiter nằm nghiêng bên lề đường, nghi ngờ có tai nạn giao T2, anh dừng xe lại kiểm tra, tìm kiếm xung quanh nhưng không thấy người, kiểm tra thì xe không có chìa khóa, dây điện khóa xe thì bị tháo rời và dàn nhựa phía trước xe không còn nên anh đã điện thoại báo cho Công an thị trấn Hiệp P T hành lập biên bản và tạm giữ chiếc xe máy để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Tóm tắt lời khai của người làm chứng Huỳnh Tuấn Giang có trong hồ sơ vụ án như sau: Vào khoảng 09 giờ 20 phút ngày 27/7/2020 anh đang ở tiệm điện thoại Giang Mobi tại ấp 2, xã Long Thọ thì có 02 thanh niên điều khiển xe mô tô không rõ biển số đến tiệm của anh để chạy chương trình cho 01 chiếc Ipad Air 2 màu xám và nhờ chạy lại chương trình vì vợ của thanh nói trên có đổi mật khẩu nhưng bất cẩn nên không nhớ mật khẩu, anh nhận sửa và hẹn 2 thanh niên trên ngày hôm sau đến lấy. Đến tối cùng ngày thì Công an thị trấn Hiệp P đến tiệm điện thoại của anh lập biên bản thu giữ chiếc Ipad màu xám mà 02 thanh niên lúc sáng đưa cho anh sửa vì là tài sản liên quan trong vụ án trộm cắp tài sản. Anh tự nguyện giao nộp chiếc Ipad cho công an và không yêu cầu hay đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người bị hại anh Phạm Thành T2 và người làm chứng anh Võ Ngọc T3, anh Huỳnh Tấn G, anh Trần Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh T2 có đơn xin xét xử vắng mặt; anh T3, anh Giang, anh Nhơn vắng mặt. Tại hồ sơ thể hiện đầy đủ lời khai bị hại và người làm chứng và anh T2 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự T hành xét xử vắng mặt anh T2, anh T3, anh G, anh N.

[2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, không có tội.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo khai nhận, vào khoảng 02 giờ 30 ngày 25/7/2020 bị cáo cùng với Mai Hữu P đến phòng trọ của anh Phạm Thành T2 tại khu phố M, thị trấn Hiệp P thì P dùng bình gas và đầu khò phá ổ khóa cửa phòng trọ của anh T2 rồi lẻn vào trộm cắp 01 máy tính bảng hiệu Ipad Air và 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ- đen, biển số 60C1-603.27 còn bị cáo đứng bên ngoài cảnh giới. Sau khi lấy được tài sản thì K điều khiển xe mô tô biển số 60C1-603.27 đi bán cho người không rõ nhân thân được được 2.500.000 đồng tiêu xài và mua ma túy về cho cả bọn sử dụng hết còn 01 máy tính bảng hiệu Ipad Air chưa kịp đi tiêu thụ. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 17.600.000đồng. Lời khai nhận của bị cáo trùng khớp lời khai ban đầu, lời khai của bị hại cùng chứng cứ khác được thu thập có tại hồ sơ vụ án.

Hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi mà bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu về mặt an ninh và trật tự trong xã hội. Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi và hậu quả do hành vi của mình gây ra nhưng do tham lam, lười lao động và xem thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Vì vậy, cần cho bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: không có.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc trường hợp quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cần xem xét hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[6] Về biện pháp tư pháp:

- Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo T chiếm đoạt của bị hại đã được thu hồi và hoàn trả lại cho bị hại (BL 117 -119). Bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng của Mai Hữu P và 01 điện thoại di động Samsung màu xám của Vũ Văn T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ khò gas (gồm 01 bình gas mini, 01 đầu khò) sim điện thoại Viettel số 0346292049 của Mai Hữu P và sim điện thoại Viettel số 034.552.8927 của Vũ Văn T là công cụ, phương tiện để dùng vào việc phạm tội.

(Số vật chứng trên hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2020).

+ Đối với 01 USB màu xanh bên trong có lưu giữ một đoạn video là chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo T nên không tiêu hủy mà được lưu giữ tại hồ sơ vụ án.

[7] Quan điểm truy tố, tội danh, điều luật áp dụng và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Đối với đối tượng Khắp là người tham gia trộm cắp tài sản cùng T và P, do chưa xác định được nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[9] Đối với Mai Hữu P là đồng phạm trong vụ án, do P đã chết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch đã ra quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với bị can Mai Hữu P theo quy định.

[10] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 46; Điều 47; Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào các Điều 106, 136, 260, 292, 293, 298, 299, 326, 331, 333, 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1- Về hình phạt:

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 28/7/2020.

Về biện pháp tư pháp:

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng của Mai Hữu P và 01 điện thoại di động Samsung màu xám của Vũ Văn T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ khò gas (gồm 01 bình gas mini, 01 đầu khò) sim điện thoại Viettel số 0346292049 của Mai Hữu P và sim điện thoại Viettel số 034.552.8927 của Vũ Văn T là công cụ, phương tiện để dùng vào việc phạm tội.

(Số vật chứng trên hiện đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2020).

2- Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2020/HS-ST ngày 04/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:133/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về