Bản án 133/2020/HNGĐ-ST ngày 01/10/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 133/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/10/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 01 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 233/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020 về việc “tranh chấp ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 361/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Ngô Văn D, sinh năm 1981 (có mặt).

- Bị đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1982 (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp T, xã R, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Ngô Văn D trình bày: Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N sống với nhau như vợ chồng vào năm 2000, không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu anh, chị chung sống rất hạnh phúc. Vào năm 2018 vợ chồng thường xuyên xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã ly thân với nhau. Nay, anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trần Thị N.

Về con chung: Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N có 02 người con chung tên Ngô Trung N, sinh năm 2000 đã trưởng thành và tự nuôi sống bản thân mình và Ngô Thảo V, sinh năm 2005 hiện anh D đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn anh D yêu cầu được nuôi con chung là Ngô Thảo V. Về cấp dưỡng nuôi con anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N thỏa thuận chị N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 800.000 đồng đến khi cháu V đủ 18 tuổi và tự nuôi sống bân thân mình.

Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Trần Thị N trình bày: Chị Trần Thị N thừa nhận việc trình bày của anh Ngô Văn D về hôn nhân, con chung là đúng. Nay, chị đồng ý ly hôn với anh Ngô Văn D.

Về con chung: Khi ly hôn chị đồng ý cho anh D tiếp tục nuôi con chung tên Ngô Thảo V. Chị đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 800.000 đồng.

Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, anh Ngô Văn D giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Ngô Văn D yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trần Thị N là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn và nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau. Do vụ án không thuôc trường hợp quy định Khoản 2 điều 21 của Bộ Luật tố tụng dân sự nên Kiểm sát viên không tham gia phiên tòa.

[2] Vê quan hệ hôn nhân : Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Ngô Văn D với chị Trần Thị N thấy rằng: Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N sống với nhau như vợ, chồng vào năm 2000, không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N chung sống rất hạnh phúc nhưng đến năm 2018 vợ chồng thường xuyên xảy ra nhiều mâu thuẫn và đã sống ly thân với nhau .

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này” Khoản 2 điều 53 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này” Như vậy, anh D và chị N chung sống với nhau như vợ, như chồng nhưng không có đăng ký kết hôn, nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ quan hệ giữa vợ và chồng. Do đó, cần tuyên bố anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N không phải là quan hệ vợ chồng.

[3] Về con chung: Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N có 02 người con chung tên Ngô Trung N, sinh năm 2000 đã trưởng thành và tự nuôi sống bản thân mình và Ngô Thảo V, sinh năm 2005 hiện anh D đang trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N đã thỏa thuận khi ly hôn anh D được trực tiếp nuôi con chung là Ngô Thảo V, điều này cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu V. Về cấp dưỡng nuôi con, anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N thỏa thuận chị N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 800.000 đồng đến khi cháu V đủ 18 tuổi và tự nuôi sống bân thân mình. Xét thấy, việc thỏa thuận giữa anh D và chị N không trái pháp luật và đạo đức xã hội nên cần công nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung. Anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm anh D phải chịu 300.000 đồng, anh D đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng được chuyển thu án phí. Chị N phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 và Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 14, Điều 15 và Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N là quan hệ vợ chồng.

2- Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa anh Ngô Văn D và chị Trần Thị N về việc: Anh Ngô Văn D được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Ngô Thảo V, sinh Ny 26/9/2005. Chị Trần Thị N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 800.000 đồng, phương thức cấp dưỡng hàng tháng, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/10/2020 cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi và có khả năng tự lao động nuôi sống bản thân. Chị N có quyền thăm nom con không ai được cản trở.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3- Về án phí: Anh Ngô Văn D phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng, anh D đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0011942 ngày 20 tháng 8 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Tân được chuyển thu. Chị Trần Thị N phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2020/HNGĐ-ST ngày 01/10/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:133/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về