Bản án 133/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 133/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 20 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 136/2018/TLST- HS ngày 19 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2018/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn T sinh năm 1986 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Số nhà M, đường XT, phố ĐL, phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn B và bà Đinh Thị N; Có vợ và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/05/2018, đến ngày 21/05/2018 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

2. Đặng Thị C sinh năm 1969 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Số nhà K, đường YT, phố ĐL, phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn P và bà Đinh Thị L; Chồng, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/05/2018, đến ngày 21/05/2018 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

3. Đinh Xuân D sinh năm 1972 tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Số nhà H, đường YT, phố ĐL, phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Văn T và bà Đinh Thị B; Có vợ và02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ  từ ngày 15/05/2018, đến ngày 21/05/2018 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dựa vào kết quả sổ xố kiến kiến thiết miền Bắc mở thưởng hàng ngày, Đặng Văn T là người ghi lô, đề đã đứng ra nhận các bảng lô, đề của những người chơi là Đặng Thị C và Đinh Xuân D sau đó sử dụng điện thoại di động nhắn tin chuyển các bảng lô, đề đã nhận của những người chơi đến số điện thoại 01216320000 của một người thanh niên tên Đ trú tại phố TN, phường TT, thành phố Ninh Bình để hưởng phần trăm hoa hồng. Hành vi đánh bạc bằng hình thức “chơi lô, đề” được thua bằng tiền của Đặng Văn T, Đinh Xuân D và Đặng Thị C được thống nhất cách chơi như sau:

Đối với “số đề” có hai loại, gồm loại “02 số” và loại “03 số”, người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ (từ cặp số 00 đến cặp số 99, đối với loại “02 số” và từ cặp số 000 đến cặp số 999 đối với loại “03 số”) ghi trong bảng đề. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu là tùy người chơi. Việc đối chiếu kết quả được các đối tượng thỏa thuận thống nhất: Lấy hai số cuối của giải đặc biệt đối với loại “02 số” và 03 số cuối của giải đặc biệt đối với loại “03 số” của xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; Nếu cặp số của người chơi trùng với hai số, ba số cuối của giải đặc biệt xổ số kiến thiết miền Bắc thì người chơi “trúng đề”. Trong trường hợp này, Đặng Văn T sẽ thanh toán với người thanh niên tên Đ để lấy tiền trả cho người “trúng đề” với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp tám mươi lần số tiền người “trúng đề” đã bỏ ra mua các cặp số đối với loại “02 số” và gấp bốn trăm lần đối với loại “03 số”. Ngược lại, nếu không có người chơi nào“trúng đề” thì người đàn ông tên Đ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các cặp số trong các bảng đề do T chuyển. Đặng Văn T được trả % hoa hồng trên tổng số tiền các số đề T đã chuyển cho Đ.

Đối với “số lô” gồm có “lô Hà Nội”,“lô Ninh Bình” và “lô xiên”.

Đối với “lô Hà Nội”,“lô Ninh Bình” thì người chơi chọn mua một hoặc nhiều cặp số bất kỳ từ cặp số 00 đến cặp số 99 ghi trong “bảng lô”. Giá trị mỗi cặp số ít nhất là 23.000 đồng đối với “lô Hà Nội” và ít nhất 20.000 đồng đối với “lô Ninh Bình”. Việc đối chiếu thanh toán được Đặng Văn T thỏa thuận thống nhất với những người chơi là: Lấy hai số cuối của các giải trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày để đối chiếu; Nếu cặp số của người chơi trùng khớp với hai số cuối của một hoặc các giải thưởng trong 7 giải xổ số kiến thiết miền Bắc hôm đó thì người chơi “trúng lô”. Cứ 23.000 đồng người chơi “số lô Hà Nội” và 20.000 đồng người chơi “số lô Ninh Bình” bỏ tiền ra mua một cặp số được tính với nhau là 01 điểm, nếu trùng khớp với một giải thì được nhận 80.000 đồng đối với “số lô Hà Nội” và 70.000 đồng người chơi “số lô Ninh Bình”, trùng khớp hai giải thì được 160.000 đồng đối với “số lô Hà Nội” và 140.000 đồng người chơi “số lô Ninh Bình”. Ngược lại, nếu không có người chơi nào“trúng lô” thì người đàn ông tên Đ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các cặp số trong các bảng lô do T chuyển. Còn Đặng Văn T được trả % hoa hồng trên tổng số tiền các số lô T đã chuyển cho Đ.

 “Lô xiên” gồm có “xiên 2, xiên 3, xiên 4”, khác với “lô Hà Nội và lô Ninh Bình”, người chơi phải lựa chọn mua hai cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 2”, ba cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 3”, bốn cặp số bất kỳ đối với loại “lô xiên 4”, từ cặp số 00 đến 99. Giá trị mỗi cặp số mua bao nhiêu là tùy người chơi. Việc đối chiếu, thanh toán, cũng đối chiếu với hai số cuối của các giải trong bảy giải xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng trong ngày. Nếu hai cặp số của người chơi trùng với hai số cuối của một trong các giải thưởng trong bảy giải kết quả xổ số thì người chơi trúng “lô xiên 2”, nếu ba cặp số của người chơi trùng với ba số cuối của một trong các giải thưởng trong bảy giải kết quả xổ số thì người chơi trúng “lô xiên 3”, nếu bốn cặp số của người chơi trùng với bốn cặp số cuối của một trong các giải thưởng trong bảy giải kết quả xổ số thì người chơi trúng “lô xiên 4”. Trong trường hợp này, người đàn ông tên Đ là chủ đề phải thanh toán cho Đặng Văn T để T thanh toán cho những người đã mua số lô xiên của T với số tiền trúng thưởng có giá trị gấp 10 lần số tiền người “trúng lô” đã bỏ ra mua các cặp số đối với loại “lô xiên 2”, gấp 40 lần đối với loại “lô xiên 3” và gấp gấp 100 lần đối với loại “lô xiên 4”. Ngược lại, nếu không có người chơi nào“trúng lô xiên” thì người đàn ông tên Đ được hưởng toàn bộ số tiền những người chơi đã bỏ ra mua các cặp số lô xiên trong các bảng lô xiên do T chuyển. Còn Đặng Văn T được trả % hoa hồng trên tổng số tiền các số lô xiên T đã chuyển cho Đ.

Từ “nguyên tắc, hình thức” chơi “Số lô, số đề” như trên, trong ngày 14/5/2018, Đặng Văn T, Đinh Xuân D và Đặng Thị C đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề thông qua tin nhắn điện thoại di động cụ thể như sau:

Chiều ngày 14/05/2018, Đặng Thị C nhận các số lô Hà Nội của một người phụ nữ tên A trú tại phường TT, thành phố Ninh Bình sử dụng số điện thoại 0944611915 gồm các số: 03, 26, 30, 36, 59, 62, 63, 79, 89, 95, 97, 98 với tổng số tiền 2.760.000 đồng; Nhận các số lô Hà Nội của một người đàn ông tên B trú tại phường TT, thành phố Ninh Bình sử dụng số điện thoại 0988053510 gồm các số: 20, 56, 68, 86 với tổng số tiền là 2.760.000 đồng; Nhận các số lô Hà Nội của một người đàn ông tên K trú tại phường ĐT, thành phố Ninh Bình sử dụng số điện thoại 0963330577 gồm các số: 23,35,77 với tổng số tiền 460.000 đồng. Sau đó, C tổng hợp cùng các số lô Hà Nội của C tự đánh gồm các số 16, 33, 46, 55, 59, 61,64 với tổng số tiền 2.990.000 đồng, các số đề 00, 03, 08, 09, 13, 23, 30, 31, 32,33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 43, 53, 63, 69, 70, 83, 90, 96 với tổng số tiền là 1.590.000 đồng vào tin nhắn và sử dụng điện thoại Wing lắp sim số 0967411143 chuyển toàn bộ các số lô, số đề đến số điện thoại 0975609511của Đặng Văn T T với tổng số tiền là 10.560.000 đồng (trong đó của C tự chơi là 4.580.000 đồng; Của A, B và K là 5.980.000 đồng. Sau khi nhận các số lô, số đề do C gửi, T đã xác nhận lại. Chiều ngày 14/05/2018, Đinh Xuân D sử dụng điện thoại nhãn hiệu Nokia lắp sim số 01254389799 nhắn tin vào số điện thoại 0975609511 của Đặng Văn T để mua các số đề gồm: 00, 06, 09, 11, 12, 13, 15, 16, 19, 21, 22, 23, 24, 26, 27, 28, 29, 32, 33, 34, 36, 37, 38, 39, 42, 43, 44, 46, 47, 48, 49, 51, 55, 56,57, 59, 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 73, 74, 75, 76, 77, 79, 82, 84,  86, 87, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99 với tổng số tiền là 7.270.000 đồng; Các số lôHà Nội gồm: 01, 05, 36, 50, 53, 63, 64, 93 với tổng số tiền là 2.185.000 đồng. Tổng số tiền mua các số lô, số đề D chuyển cho T là 9.455.000 đồng. Sau khi nhận các số lô, đề của D, T đã nhắn tin xác nhận lại và chuyển toàn bộ các số lô, số đề đã nhận của C và D đến số điện thoại 01216320000 của người đàn ông tên Đ ở phố TN, phường TT, thành phố Ninh Bình. Đối chiếu với kết quả sổ xố miền Bắc mở thưởng ngày 14/05/2018, các số lô C ghi của T trúng thưởng 125 điểm x 80.000 đồng/1 điểm=10.000.000 đồng (gồm các số lô 16, 55,56, 68, 86, 95, 99); Các số lô D ghi của T trúng thưởng65 điểm x 80.000đồng/1điểm = 5.200.000 đồng (gồm các số lô 01, 93). 

Như vậy: Tổng số tiền Đinh Xuân D đánh bạc với Đặng Văn T là 14.655.000 đồng. Tổng số tiền Đặng Thị C đánh bạc với Đặng Văn T là 20.560.000 đồng.Tổng số tiền Đặng Văn T sử dụng để đánh bạc với Đinh Xuân D và Đặng Thị C là 35.215.000 đồng.

Hồi 04 giờ ngày 15/05/2018, đội cảnh sát hình sự công an thành phố Ninh Bình phối hợp cùng công an phường TT, thành phố Ninh Bình làm nhiệm vụ tại khu vực đường LTT, phường TT, thành phố Ninh Bình phát hiện thấy T có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Khi kiểm tra hành chính, T không xuất trình được giấy tờ tùy thân nên tổ công tác đã đưa T về công an thành phố Ninh Bình để làm việc. Quá trình làm việc, T đã xin tự thú hành vi đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề qua tin nhắn điện thoại di động với Đinh Xuân D và Đặng Thị C ngày 14/5/2018 và giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng lắp sim số 0975609511 sử dụng để mua bán số lô, số đề.

Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ninh Bình đã tiến hành giữ Đinh Xuân D và Đặng Thị C trong trường hợp khẩn cấp và thu giữ của D 01 điện thoại Nokia 301 lắp sim 01254389799, thu giữ của C 01 điện thoại nhãn hiệu Wing màu xanh lắp sim 0967411143 và sim 0943482336 sử dụng để mua bán số lô, số đề với Đặng Văn T.

Quá trình điều tra vụ án, Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Đối với 01 sim điện thoại 0943482336 thu giữ của Đặng Thị C quá trình điều tra xác định C không sử dụng vào việc đánh bạc nên cơ quan điều tra đã trả lại cho C.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng lắp sim số 0975609511 thu giữ của Đặng Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia lắp sim số 01254389799 thu giữ của Đinh Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wing màu xanh đen lắp sim 0967411143 thu giữ của Đặng Thị C sử dụng vào việc đánh bạc được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình để giải quyết cùng vụ án.

Tại bản cáo trạng số 135/CT-VKS ngày 19/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, kho¶n 3, Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3, Điều 321; Điều 36; điểm i, r, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Đặng Văn T từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 6 ngày tạm giữ (từ ngày 15/5/2018 đến 21/5/2018) được quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo T có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường TT trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Hàng tháng khấu trừ 5% thu nhập của bị cáo T để sung quỹ nhà nước. Phạt bổ sung từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 để sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3, Điều 321; Điều 36; Điểm i, s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Đặng Thị C từ 9 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 6 ngày tạm giữ (từ ngày 15/5/2018 đến 21/5/2018) được quy đổi thành 18 ngày cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với bị cáo tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo C có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường TT trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Hàng tháng khấu trừ 5% thu nhập của bị cáo C để sung quỹ nhà nước. Phạt bổ sung từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 để sung quỹ nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm i,s, khoản 1, Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đinh Xuân D từ 20.000.000 đến 22.000.000 đồng. Xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng thu giữ của Đặng Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu giữ của Đinh Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wing màu xanh đen thu giữ của Đặng Thị C.

- Buộc bị cáo T phải nộp lại số tiền 15.200.000 đồng; Bị cáo C phải nộp lại số tiền 10.560.000 đồng; Bị cáo D phải nộp lại số tiền 9.455.000 đồng để sung quỹ nhà nước

- Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đánh bạc của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Tại phiên tòa các bị cáo Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng phạm đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 14/5/2018, trên địa bàn thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D đã có hành vi sử dụng điện thoại di động để mua và bán các số lô, số đề, cụ thể:

Đặng Văn T đã sử dụng điện thoại di động của mình nhận các số lô, số đề của Đinh Xuân D và Đặng Thị C với tổng số tiền sử dụng để đánh bạc là 35.215.000 đồng; Đặng Thị C sử dụng điện thoại di động của mình ghi các số lô, số đề rồi chuyển cho Đặng Văn T với tổng số tiền là 20.560.000 đồng; Đinh Xuân D sử dụng điện thoại di động của mình ghi các số lô, số đề rồi chuyển cho Đặng Văn T với tổng số tiền là 14.655.000 đồng.

Hành vi của các bị cáo xâm hại đến trật tự công cộng là khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cả ba bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc sử dụng điện thoại di động để ghi và nhận các số lô, số đề là một hình thức đánh bạc bị Nhà nước cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện.

Đối chiếu với quy định của pháp luật hình sự nhận thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại cáo trạng, lời luận tội, chứng cứ buộc tội các bị cáo của Kiểm sát viên trình bày tại phiên toà là có căn cứ đúng người, đúng tội. Hành vi sử dụng điện thoại di động để mua và bán các số lô, số đề với tổng số tiền 35.215.000 đồng của các bị cáo Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D đã phạm tội: “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Ngoài xâm hại đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, hành vi của các bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Từ việc đánh bạc đã dẫn đến tiêu tán tài sản, kiêt quệ kinh tế của nhiều cá nhân và gia đình. Để bảo vệ trật tự xã hội, có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung thì việc truy tố, đưa ra xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Đặng Văn T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự thú hành vi đánh bạc, bố bị cáo là thương binh nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, r, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Đinh Xuân D và Đặng Thị C phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự

[3] Về nhân thân: Khi phạm tội cả ba bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, có chỗ ở ổn định, rõ ràng.

[4] Tính chất đồng phạm của các bị cáo là giản đơn, bị cáo T là người nhận số lô, số đề của bị cáo D và C sau đó chuyển cho một người tên Định để hưởng hoa hồng do đó bị cáo có vai trò chính trong vụ án, bị cáo C số tiền sử dụng đánh bạc nhiều có vai trò thứ hai, bị cáo D có vai trò cuối.

[5] Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy đối với bị cáo T và bị cáo C cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ; Khấu trừ một phần thu nhập trong thời gian cải tạo không giam giữ để sung ngân sách nhà nước; Áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Đối với bị cáo D chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền cũng đủ điều kiện để giáo dục, cải tạo các bị cáo.

[6] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng thu giữ của Đặng Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu giữ của Đinh Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wing màu xanh đen thu giữ của Đặng Thị C sử dụng vào việc đánh bạc nên tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền mua bán số lô, số đề giữa Đặng Văn T và Đinh Xuân D ngày 14/5/2018 là 14.655.000 đồng, trong đó, số tiền bị cáo D mua số lô đề là 9.455.000 đồng, số tiền trúng thưởng là 5.200.000 đồng các bị cáo chưa thanh toán với nhau. Do đó, cần buộc bị cáo T phải nộp lại 5.200.000 đồng; Bị cáo D phải nộp lại số tiền 9.455.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền mua bán số lô, số đề giữa Đặng Văn T và Đặng Thị C ngày 14/5/2018 là 20.560.000 đồng, trong đó, số tiền bị cáo C mua số lô đề là10.560.000 đồng, số tiền trúng thưởng là 10.000.000 đồng các bị cáo chưa thanh toán với nhau. Do đó, cần buộc bị cáo T phải nộp lại 10.000.000 đồng; bị cáo C phải nộp lại số tiền 10.560.000 đồng để sung quỹ nhà nước.

Tổng số tiền bị cáo T phải nộp lại để sung quỹ nhà nước là 15.200.000 đồng.

Đối với người đàn ông tên Định, B, K; Người phụ nữ tên A trong vụ án này có hành vi mua bán số lô số đề với bị cáo T và C cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh điều tra nhưng chưa có kết quả nên đã tách phần tài liệu liên quan đến những đối tượng trên để tiếp tục xác minh làm rõ nếu có căn cứ sẽ xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, đúng thẩm quyền, đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm i, r ,s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: bị cáo Đặng Văn T 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, được trừ 6 ngày tạm giữ (từ ngày 15/5/2018 đến 21/5/2018) bằng 18 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải chấp hành 14 tháng 12 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Đặng Văn T cho Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo Đặng Văn T có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo; Khấu trừ 5% thu nhập trong thời gian chấp hành án; Phạt bổ sung 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm i, s, khoản 1, Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Đặng Thị C 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, được trừ 6 ngày tạm giữ (từ ngày 15/5/2018 đến 21/5/2018) bằng 18 ngày cải tạo không giam giữ, còn phải chấp hành 11 tháng 12 ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Đặng Thị C cho Ủy ban nhân dân phường TT, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo Đặng Thị C có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo; Khấu trừ 5% thu nhập trong thời gian chấp hành án; Phạt bổ sung 12.000.000 (Mười hai triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ khoản 1, Điều 321; điểm i, s, khoản 1, Điều 51; Điều 35 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Đinh Xuân D 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”

2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 thu giữ của Đặng Văn T; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia thu giữ của Đinh Xuân D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Wing thu giữ của Đặng Thị C.

- Buộc bị cáo T phải nộp lại số tiền 15.200.000 (Mười lăm triệu hai trăm nghìn) đồng ; Bị cáo C phải nộp lại số tiền 10.560.000 (Mười triệu năm trăm sáu mươi nghìn) đồng; Bị cáo D phải nộp lại số tiền 9.455.000 (Chín triệu bốn trăm năm mươi lăm nghìn) đồng để sung quỹ nhà nước

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Đặng Văn T, Đặng Thị C và Đinh Xuân D mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án 20/11/2018.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 133/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội đánh bạc

Số hiệu:133/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về