TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 132/2020/HSST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 6 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 146/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:
PHẠM QUỐC T, sinh năm 1994 tại Cà Mau;
Hộ khẩu thường trú: ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: không ổn định; trình độ học vấn: 03/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; cha: Phạm Quốc Th, sinh năm 1962; mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1962; có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 2;
Tiền sự: không.
Tiền án:
- Năm 2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Năm 2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong hình phạt ngày 31-01-2018.
Bị bắt ngày: 27/11/2019 (có mặt).
*Bị hại: Anh Trần Thanh H, sinh năm 1986, địa chỉ: Số 404 đường L, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Huỳnh Tấn V, sinh năm 1993, địa chỉ: Số 40/11/31 đường B, Phường N, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 16/11/2019, anh Huỳnh Tấn V (sinh năm 1993, HKTT: 40/11/31 B, phường N, thành phố V) mang xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu đen BKS 72E1- 444.89 đến tiệm sửa xe S (địa chỉ 404 L, Phường B, thành phố V) của anh Trần Thanh H để sửa xe.
Ngày 17/11/2019, sau khi sửa xe xong, anh H gọi điện cho anh V ra lấy xe về nhưng không liên lạc được. Lúc này anh H thấy Phạm Quốc T (SN 1994, HKTT: xã T, huyện C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: không ổn định), đến nói lấy xe dùm anh V. Do biết Phạm Quốc T là bạn quen biết với anh V nên anh H đã giao xe cho T. Vì đang cần tiền tiêu xài, T bàn bạc với người tên L (không rõ nhân thân lai lịch) cầm xe của anh V cho 01 đối tượng tên P (P heo – không rõ lai lịch) để lấy số tiền là 1.000.000 đồng (một triệu đồng) và đã tiêu xài hết.
Sau khi biết T đã mang xe đi cầm, anh V đã đi trình báo Công an Phường B giải quyết và cùng với mọi người trong gia đình tổ chức tìm kiếm T. Đêm ngày 17.11.2019, khi đi đến khu vực đường HC, phường N thì ông Trần Q (cha của anh H) phát hiện có người đang sử dụng xe của anh V nên đến đòi lại thì đối tượng này để lại xe và bỏ chạy. Ông Q mang xe về giao nộp cho Công an Phường B, Tp.V. Qua công tác tuần tra, lực lượng Công an Phường Thắng Nhất phát hiện T có biểu hiện nghi vấn nên đã mời về cơ quan làm việc. Khi bị phát hiện thì T đang sử dụng một xe mô tô BSKS 52M3.5254 (T khai mua tại vựa ve chai). Sau đó Công an Phường Thắng Nhất bàn giao cho Công an Phường 7, Tp.Vũng Tàu.
Tại cơ quan Công an CSĐT, Phạm Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 189/KL-HĐĐG-TTHS ngày 24/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự, kết luận: xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu đen BKS 72E1- 444.89, trị giá 17.500.000 đồng (mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng);
Quá trình điều tra, Phạm Quốc T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị can phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm, quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 174 BLHS. Bị can T có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:
+ Xử lý vật chứng: Xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu đen BKS 72E1- 444.89 cơ quan CSĐT đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 156/QĐ-Đ1 ngày 06.01.2020 trả xe lại cho anh Huỳnh Tấn V;
- Về trách nhiệm dân sự: Anh V đã nhận lại xe không yêu cầu gì thêm. Anh H cũng không yêu cầu gì, nên không xem xét.
Bản cáo trạng số 138/CT-VKS ngày 20/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu truy tố Phạm Quốc T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp.Vũng Tàu giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Quốc T mức án từ 30 (ba mươi) đến 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Đối với xe mô tô gắn biển số 52M3-5254 số khung VDNEMA 1000436, số máy không rõ, thu của T, cơ quan điều tra tách ra điều tra, xác minh xử lý sau nên không đề xuất xem xét.
- Bị cáo không tranh luận với quan điểm đề xuất của Đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vũng Tàu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Căn cứ lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:
Phạm Quốc T là đối tượng đã có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản vào năm 2015 và 2017. Sau khi chấp hành án, bị cáo không tu chí làm ăn mà vào ngày 16-11- 2019, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản. Cụ thể: Khi biết xe Yamaha Exciter biển số 72E1-444.89 của anh Huỳnh Tấn V đã sửa xong ở tiệm sửa xe S của anh Trần Thanh H, do cần tiền, bị cáo bàn với L (không rõ lai lịch) nói dối với anh H rằng bị cáo được anh V nhờ đến lấy xe giúp. Tin lời, anh H đưa xe cho T, khi có xe của anh V bị cáo đã đi cầm xe để lấy số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) và tiêu xài hết. Như vậy, bằng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin không đúng khiến cho anh Trần Thanh H tin tưởng để giao tài sản cho mình, Phạm Quốc T đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 72E1-444.89 do anh H đang quản lý sau đó tẩu thoát. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 17.500.000 đồng. Chiếc xe này, người nhà anh H đi truy tìm thì phát hiện người lạ đang chạy nên giữ lại được và đã giao Cơ quan điều tra, Cơ quan điều tra đã giao trả cho bị hại là anh V. Người đang sử dụng xe chạy thoát.
Hành vi của bị cáo Phạm Quốc T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Đối với đối tượng sử dụng xe bỏ chạy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vũng Tàu đang xác minh làm rõ, có căn cứ sẽ xử lý sau.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra là nguy hiêm cho xã hội ; bị cáo đã bị xét xử 02 lần cũng về tội xâm phạm sở hữu, không cố gắng lao động, hoàn lương. Chấp hành hình phạt không bao lâu lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây mất trật tự trị an, gây bất an cho cộng đồng và xã hội. Do đó, cần có một hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất phạm tội, với nhân thân của bị cáo để đủ mức răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
* Đối với xe mô tô gắn biển số 52M3-5254 số khung VDNEMA 1000436, số máy không rõ, thu của T, cơ quan điều tra tách ra để điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau nên không xem xét.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điêu 174; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Phạm Quốc T 30 (ba mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/11/2019.
2. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đông ) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án niêm yết theo qui định của pháp luật.
Bản án 132/2020/HSST ngày 24/06/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 132/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về