Bản án 132/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 132/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 124/TLST-HS, ngày 24 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trương Thị H, sinh năm 1992 tại Thanh Hóa; Đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: thôn T, xã H, huyện P, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông Trương Công C, sinh năm 1970 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1976; Chồng: Lường Văn T (đã ly hôn); Con: có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án: không có; Tiền sự: có 01 tiền sự: Ngày 06/8/2019, Công an thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 85/QĐ-XPHC phạt 1.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính trộm cắp tài sản; Bị cáo khởi tố tại ngoại, được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại:

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1992; Địa chỉ: thôn 9, xã Đ, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Chị Ngô Hồng N, sinh năm 1974; Địa chỉ: thôn T, xã D, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên tòa)

- Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990; Địa chỉ: thôn T, xã YT, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. (Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/4/2020, Công an xã Đ tiếp nhận đơn trình báo của chị Nguyễn Thị H về việc vào khoảng 13giờ 30 phút ngày 18/4/2020, chị H đã bị mất trộm 01 chiếc xe máy Yamaha Sirius màu đỏ, BKS: 29U8-0324 tại thôn 9, Đ, Gia Lâm, Hà Nội. Sau khi nhận được tin báo, ngày 21/4/2020, Công an xã Đ đã phối hợp với Đội cảnh sát điều tra án hình sự - huyện Gia Lâm điều tra làm rõ được Trương Thị H là đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy của chị Nguyễn Thị H.

Tại Cơ quan Công an, Trương Thị H khai nhận: Do thiếu tiền tiêu xài nên H đã nảy sinh ý định đi trộm cắp xe máy để bán lấy tiền chi tiêu. Vào khoảng 13 giờ 10 phút, ngày 18/4/2020, H đi bộ một mình đến thôn 9, Đ, Gia Lâm, Hà Nội thì phát hiện thấy 01 chiếc xe máy Yamaha Sirius màu đỏ, BKS: 29U8-0324 đang dựng ở trong ngõ không ai trông giữ, H đã dùng chiếc chìa khóa (dài 5cm có phần chuôi làm bằng nhựa màu đen in chữ “Honda”, phần chìa khóa làm bằng kim loại sáng màu) mà H đã chuẩn bị từ trước để lén lút mở khóa chiếc xe máy trên nhưng xe không nổ máy. Sau đó, H tiếp tục dùng chân phải đạp ga nhưng chiếc xe vẫn không nổ máy được. Thấy vậy, H liền dùng tay đẩy chiếc xe máy đi. Khi đẩy xe đến đầu ngõ thì chiếc xe nổ máy, H liền điều khiển xe máy đi về hướng thị trấn Y, Gia Lâm, Hà Nội. Trên đường đi, H tháo biển số xe vứt vào lề đường để tránh bị phát hiện. Sau đó H đi xe máy về phòng trọ cất giữ với ý định dùng làm phương tiện đi lại. Ngày 22/4/2020, H đã tự nguyện giao nộp chiếc xe máy trên cho Cơ quan công an để phục vụ điều tra.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đã qua sử dụng không có biển kiểm soát, số khung: RLCS3S310 6Y017586 và số máy: 3S31 - 017586; 01 chiếc chìa khóa dài 5cm, có chuôi khóa bằng nhựa màu đen ghi chữ “Honda”, chìa khóa bằng kim loại sáng màu; 01 chiếc áo thun cộc tay màu xanh tím than, bên trong có phần vải lót màu trắng; 01 chiếc áo khoác dài tay màu đen bên trong là phần vải kẻ sọc; 01 chiếc mũ lưỡi trai giả da màu đen có đính hình tam giá màu vàng ghi chữ Hater ở phía trước; 01 đôi dép quai hậu màu đen ở quai dép ghi chữ Chaco; 01 chiếc áo thun màu xám ghi cộc tay; 01 chiếc áo bò dài tay màu xanh; 01 đôi dép lê màu trắng có kẻ đen;

Tại Kết luận định giá tài sản số 61/KL-HĐĐG ngày 06/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Gia Lâm đã kết luận: “01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ BKS: 29U8 – 0324, số máy: 017586, số khung: 017586 đã qua sử dụng có giá trị: 4.800.000đ.

Cùng với thủ đoạn như trên, Trương Thị H đã tự nguyện khai nhận 02 hành vi trộm cắp tài sản khác trên địa bàn huyện Gia Lâm như sau:

Vụ thứ 1: vào khoảng 13 giờ 40 phút ngày 12/4/2020, H đi bộ một mình đến thôn 4, xã N, Gia Lâm, Hà Nội với mục đích để trộm cắp tài sản. Đến nơi, H thấy bên cạnh quán bánh mỳ ngọt có 01 chiếc xe máy Yamaha sirius BKS: 29U6 – 3628 không ai trông giữ, H đã dùng chiếc chìa khóa mà H đã chuẩn bị từ trước để mở khóa chiếc xe trên. Sau khi mở được khóa xe, H nổ máy và điều khiển xe chạy về phòng trọ của mình ở Thôn K, xã Y. H ở nhà khoảng 30 phút thì tiếp tục lấy xe máy mà mình vừa trộm cắp được đi lang thang trên đường tìm xem có ai mua thì bán. Sau đó, H đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông không quen biết với giá 700.000đ rồi đi bộ về phòng trọ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 62/KL-HĐĐG, ngày 06/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Gia Lâm đã kết luận: “01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu xanh đen BKS: 29U6 – 3628, số máy: 001506, số khung: 001506 đã qua sử dụng có giá trị: 4.700.000đ.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 20 giờ ngày 16/4/2020, H đi bộ một mình đến xã Y để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 20 giờ 20 phút cùng ngày, khi H đi đến 01 con ngõ có treo biển chữ “chúc mừng năm mới” màu vàng, nền đỏ và 03 quả đèn lồng phía trên thì tiếp tục đi bộ vào trong ngõ đó khoảng 30m. Đến nơi, H thấy có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Jupiter màu xám đen, BKS: 29N1 – 238.32 đang dựng sát tường. Do quan sát thấy không có ai trông giữ nên H đã lén lút dùng chiếc chìa khóa mà H đã chuẩn bị từ trước để mở khóa chiếc xe trên. Sau khi mở được khóa xe, H đã nổ máy và điều khiển xe đi về nhà trọ ở thôn K, Y. Khoảng 15 phút sau, H tiếp tục lấy chiếc xe máy mà mình vừa trộm cắp được đi lang thang trên đường tìm xem có ai mua thì bán. Sau đó, H đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông không quen biết với giá 800.000đ cho một người không quen biết đi đường rồi đi bộ về phòng trọ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 63/KL-HĐĐG, ngày 06/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Gia Lâm đã kết luận: “01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đen xám BKS: 29N1 – 238.32, số máy: 5VT7 - 002245, số khung: T705Y - 002245 đã qua sử dụng có giá trị: 6.800.000đ.

Ngày 23/4/2020, anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1990, HKTT: Trùng Quán, Y, Gia Lâm, Hà Nội có đơn trình báo về việc vào khoảng 20 giờ 20 phút ngày 16/4/2020, anh N bị mất trộm 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 29N1 – 238.32, đen xám tại Trùng Quán – Y.

Ngày 24/4/2020, chị Ngô Hồng N, sinh năm 1974, HKTT: Thôn T, D, Gia Lâm, Hà Nội có đơn trình báo về việc vào khoảng 14 giờ 15 phút ngày 12/4/2020, chị N bị mất trộm 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 29U6 – 3628 tại thôn 4, N, Gia Lâm, Hà Nội.

Tại bản cáo trạng số 120/CT-VKSGL, ngày 21/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội truy tố bị cáo Trương Thị H về Tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Trương Thị H khai nhận về hành vi mà bị cáo đã thực hiện như đã khai nhận tại cơ quan điều tra. Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Đối với đồ vật đã thu giữ của bị cáo là 01 chiếc áo thun cộc tay màu xanh tím than; 01 chiếc áo khoác dài tay màu đen; 01 chiếc mũ lưỡi trai giả da màu đen ghi chữ Hater ở phía trước; 01 đôi dép quai hậu màu đen; 01 chiếc áo thun màu xám ghi cộc tay; 01 chiếc áo bò dài tay màu xanh; 01 đôi dép lê màu trắng có kẻ đen là những vật dụng cá nhân của bị cáo nhưng bị cáo không đề nghị trả lại do không còn giá trị sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Anh Nguyễn Văn N vắng mặt và đã có đơn đề nghị rút yêu cầu bị cáo phải bồi thường 6.800.000 đồng giá trị chiếc xe máy mà H đã trộm cắp của anh nhưng không thu hồi được.

Bị cáo đồng ý bồi thường cho chị Ngô Hồng N 4.700.000đ, tuy nhiên bị cáo trình bày hiện đang nuôi con nhỏ (dưới 12 tháng tuổi), không có thu nhập và việc làm. Bị cáo cam kết nên khi nào có thu nhập bị cáo sẽ bồi thường đầy đủ cho chị N Bị hại là chị Ngô Hồng N vẫn giữ nguyên yêu cầu bị cáo bồi thường 4.700.000đ giá trị chiếc xe máy mà bị cáo đã trộm cắp của chị nhưng không thu hồi được và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm trình bày luận tội, giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng đã truy tố, trên cơ sở xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm n,r,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Trương Thị H phạm tội Trộm cắp tài sản. Đề nghị xử phạt bị cáo H từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo phải bồi thường cho chị Ngô Hồng N 4.700.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Văn N không yêu cầu bị cáo phải bồi thường 6.800.000 đồng và buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 800.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa dài 5cm, có chuôi khóa bằng nhựa màu đen ghi chữ “Honda”; 01 chiếc áo thun cộc tay màu xanh tím than;

01 chiếc áo khoác dài tay màu đen; 01 chiếc mũ lưỡi trai giả da màu đen ghi chữ Hater ở phía trước; 01 đôi dép quai hậu màu đen; 01 chiếc áo thun màu xám ghi cộc tay; 01 chiếc áo bò dài tay màu xanh; 01 đôi dép lê màu trắng có kẻ đen do bị cáo không yêu cầu trả lại vì không còn giá trị sử dụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Khong 13 giờ 40 phút ngày 12/4/2020 tại thôn 4, N, Gia Lâm, Hà Nội, Trương Thị H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 29U6 – 3628 trị giá 4.700.000 đồng của chị Ngô Hồng N. Tiếp đến vào khoảng 20 giờ ngày 16/4/2020 tại thôn Trùng Quán, xã Y, Gia Lâm, Hà Nội, H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xám đen, BKS: 29N1 – 238.32 trị giá 6.800.000 của anh Nguyễn Văn N và vào khoảng 13 giờ 10 phút ngày 18/4/2020, tại thôn 9, Đ, Gia Lâm, Hà Nội, H lại tiếp tục có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, BKS: 29U8 – 0324 trị giá 4.800.000 đồng của chị Nguyễn Thị H. Tổng giá trị 03 chiếc xe máy mà H đã chiếm đoạt được là: 16.300.000 đồng. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 03 chiếc xe máy có trị giá 16.300.000 đồng của Trương Thị H trong các ngày 12,16 và 18 tháng 4/2020 của chị N, chị H và anh N đã cấu thành tội “Tội trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 173, khoản 1 của Bộ luật hình sự.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Trương Thị H là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3]. Về hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: bị cáo đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 03 chiếc xe máy có trị giá 16.300.000 đồng trong ba ngày 12,16 và 18 tháng 4/2020 là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g Điều 52 của Bộ luật hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên”, ngoài ra bị cáo có 1 tiền sự cũng về hành vi trộm cắp tài sản ngày 06/8/2019.

Tuy là loại tội phạm ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Chỉ trong 3 ngày 12,16 và 18 tháng 4/2020, bị cáo đã liên tiếp thực hiện 3 hành vi phạm tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Gia Lâm gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và làm mất trật tự an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ vì vậy cần phải nghiêm trị bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên cũng xét: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện khai báo với cơ quan Công an về hành vi trộm cắp của mình trước đó vào các ngày 12 và 16 tháng 4/2020 giúp cho cơ quan Công an nhanh chóng kết thúc vụ án. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đang có thai. Bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường). Tại phiên tòa, người bị hại là chị Ngô Hồng N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng cho bị cáo theo điểm n,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, lấy đó làm căn cứ để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm đề nghị áp dụng đối với bị cáo có phần phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có thu nhập, không có nghề nghiệp ổn định và đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại là chị Nguyễn Thị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự nên HĐXX không xem xét, giải quyết.

Bị cáo phải bồi thường cho chị Ngô Hồng N 4.700.000 đồng do không thu hồi được tài sản.

Anh Nguyễn Văn N có đơn rút yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 6.800.000 đồng giá trị tài sản bị trộm cắp không thu hồi được. Vì vậy cần ghi nhận sự tự nguyện này của anh N và buộc bị cáo phải truy nộp số tiền thu lời bất chính là 800.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

[7]. Đối với các đối tượng đã mua 01 chiếc xe máy Yamaha sirius BKS: 29U6 – 3628 và 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 29N1 – 238.32 màu đen xám do Trương Thị H phạm tội mà có. Hiện không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[8]. Đối với Trần Văn K là người ở chung phòng trọ với Trương Thị H, qua điều tra đã làm rõ anh Kliên quan gì đến hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo H nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[9]. Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa dài 5cm, có chuôi khóa bằng nhựa màu đen ghi chữ “Honda” do đây là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.

Đối với đồ vật thu giữ của bị cáo là 01 chiếc áo thun cộc tay; 01 chiếc áo khoác dài tay màu đen; 01 chiếc mũ lưỡi trai giả da; 01 đôi dép quai hậu màu đen;

01 chiếc áo thun màu xám ghi cộc tay; 01 chiếc áo bò dài tay; 01 đôi dép lê, là vật dụng cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội. Bị cáo không đề nghị trả lại do không còn giá trị sử dụng nên HĐXX cho tịch thu tiêu hủy.

[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo: bị cáo Trương Thị H có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền còn phải bồi thường cho bị hại là 4.700.000 đồng. Những người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173; điểm n,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào các Điều: 331, 332, 333, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trương Thị H phạm Tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt: Trương Thị H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

Về bồi thường dân sự: Bị cáo phải bồi thường cho chị Ngô Hồng N số tiền 4.700.000 đồng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Văn N không yêu cầu bị cáo phải bồi thường 6.800.000 đồng.

Bị cáo Trương Thị H phải truy nộp số tiền 800.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa dài 5cm, có chuôi khóa bằng nhựa màu đen ghi chữ “Honda”, chìa khóa bằng kim loại sáng màu; 01 chiếc áo thun cộc tay màu xanh tím than, bên trong có phần vải lót màu trắng; 01 chiếc áo khoác dài tay màu đen bên trong là phần vải kẻ sọc; 01 chiếc mũ lưỡi trai giả da màu đen có đính hình tam giá màu vàng ghi chữ Hater ở phía trước; 01 đôi dép quai hậu màu đen ở quai dép ghi chữ Chaco; 01 chiếc áo thun màu xám ghi cộc tay; 01 chiếc áo bò dài tay màu xanh; 01 đôi dép lê màu trắng có kẻ đen, tất cả đều đã qua sử dụng.

Toàn bố số vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập ngày 03/9/2020 Về án phí: Bị cáo Trương Thị H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo Trương Thị H và chị Ngô Hồng N có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn N vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết đinh được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:132/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về