Bản án 132/2020/DS-ST ngày 20/11/2020 về việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH L, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 132/2020/DS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ VIỆC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 20 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:56/2020/TLST-DS, ngày 25 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp“ Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:132/2020/QĐXX-STDS, ngày 01 tháng 9 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số:730/2020/QĐST-DS, ngày 29 thàng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số:392/2020/QĐST-DS, ngày 21 thàng 10 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1986 (có mặt) Cư trú tại Khu phố 1, Phường 5, thị xã Cai L, tỉnh Tiền G.

- Bị đơn:

2. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1984 (vắng mặt) Đại diện theo pháp luật cho Nguyễn Tiểu Y, sinh năm 2006 Cư trú tại nhà số 104E, Đường Nguyễn Văn L, Khóm 1, Phường 8, thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L.

3. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1957(vắng mặt) Cư trú tại nhà số 104E, Đường Nguyễn Văn L, Khóm 1, Phường 8, thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L.

Hiện sinh sống tại nhà số 78/4E, tổ 100, Khóm 3, Phường 9 thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

4. Nguyễn Tiểu Y, sinh năm 2006 (vắng mặt) Cư trú tại nhà số 104E, Đường Nguyễn Văn L, Khóm 1, Phường 8, thành phố VĨNH L, tỉnh VĨNH L. Hiện sinh sống tại nhà số 78/4E, Tổ 100, Khóm 3, Phường 9, thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L.

Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1984 (vắng mặt) Cư trú tại nhà số 104E, Đường Nguyễn Văn L, Khóm 1, Phường 8, thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L.

5. Chị Nguyễn Thị Hồng P, sinh năm 1980 (vắng mặt) Cư trú tại nhà số 89/96D, Đường 8/3, Phường 5, thành phố VĨNH L, tỉnh Vĩnh L.

6. Bà Nguyễn Thị Cẩm N, sinh năm 1986 (có mặt) Cư trú tại Khu phố 3, Phường 1, thị xã Cai L, tỉnh Tiền G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27/02/2020 và đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện ngày 12/6/2020, anh Nguyễn Văn G yêu cầu chị Nguyễn Thị P, Nguyễn Tiểu Y và chị Nguyễn Thị Hồng P liên đới bồi thường thiệt hại tài sản, sức khỏe tổng cộng 11.497.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm chín mươi bảy nghìn đồng).

Anh G khai: Vào lúc 13 giờ 50 phút, ngày 31/01/2020 tại đường Phạm Hùng, phường 9, thành phố Vĩnh L, tỉnh Vĩnh L. Anh G điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát số 63B2-75.511 do chị Nguyễn Thị Cẩm N đứng tên chủ quyền, đi trên đường từ cầu Bình Lữ hướng cầu Cái Cam. Khi đến trước nhà thờ Tin Lành thì xảy ra va chạm với xe môtô mang biển kiểm soát số: 64C1-13.740 thuộc chủ quyền của chị Nguyễn Thị Hồng P, do bé Nguyễn Tiểu Y điều kiển chở theo em bé khoảng 03 tuổi chạy cùng chiều gây ra. Hậu quả xe của chị Nương bị hư hỏng và Anh G bị thương tích. Nguyên nhân là do chị Yến chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật đã điều khiển xe chạy phía trước chuyển hướng nhưng không có tín hiệu báo. Theo biên bản giải quyết tai nạn giao thông của Công an thành phố Vĩnh L, có bà Nguyễn Thị M và chị P tham gia. Kết luận lỗi gây tai nạn là của chị Yến, Anh G không có lỗi.

Anh G nhập viện điều trị ở Trung tâm y tế thành phố Vĩnh L từ ngày 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020 xuất viện. Bác sĩ chẩn đoán đa chấn thương chưa xác định, chấn thương khủy tay phải. Chi phí điều trị thương tích, tài sản bị hư hỏng và ngày công lao động, cụ thể như sau:

- Chi phí điều trị thương tích gồm: Chụp Xquang 194.400 đồng, thăm dò chức năng 32.800 đồng, thuốc và vật T y tế 111.558 đồng, xét nghiệm 125.700 đồng, tiền phòng (giường bệnh) 447.300 đồng. Tổng cộng là 911.748 đồng (Chín trăm mười một nghìn bảy trăm bốn mươi tám đồng).

- Thiệt hại về tài sản: Chi phí sửa xe là 7.886.000 đồng, sửa điện thoại 1.200.000 đồng, đôi giày 450.000 đồng, áo khoác 250.000 đồng. Tổng cộng là 9.786.000 đồng (Chín triệu bảy trăm tám mươi sáu nghìn đồng) - Tiền mất thu nhập ngày công lao động do nằm viện mỗi ngày 200.000 đồng x 4 ngày bằng 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) Anh G yêu cầu chị P, bé Y, chị Hồng P cùng liên đới bồi thường cho vợ chồng Anh G, tổng cộng các khoản thiệt hại là 11.497.000 đồng (Mười một triệu bốn trăm chín mươi bảy nghìn đồng), không yêu cầu bà M liên đới bồi thường thiệt hại.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Cẩm N trình bày:

Thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của Anh G.

- Tóa án đã tống đạt văn bản tố tụng lần nhất cho Tiểu Y, Hồng P, bà P, bà M vào các ngày 20/5/2020, ngày 28/5/2020 và lần hai vào ngày 06/7/2020, ngày 23/7/2020, ngày 06/7/2020 để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 08/6/2020 và ngày 28/7/2020 nhưng vắng mặt không lý do. Thông báo kết quả công khai chứng và hòa giải nhận vào ngày 15/9/2020 nhưng không có ý kiến phản hồi.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Anh G giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản và không có tài liệu, chứng cứ gì mới để xuất trình. Anh G khai, anh điều khiển xe mô tô của chị Nương đứng tên chủ quyền về quê trở về đến cầu Bình Lữ thì bị Tiểu Y điều khiển xe môtô của chị P đứng tên chủ quyền, gây tai nạn làm anh bị thương ở khủy tay phải. Do va chạm xe ngã về phía tay phải nên bị hư hỏng, có biên bản khám nghiệm xe do công an giao thông lập; Áo khoát mua đã sử dụng được một năm, bị rách tay áo bên phải; Giày mới mua giá 450.000 đồng hư hỏng trầy xước do bị xe đè lên chân; Điện thoại samsung để túi quần phải do té ngã va xuống đường bị bể mặt sau và do không còn tiền nên không có sửa điện thoại mà chỉ tham khảo giá ở các dịch vụ báo giá 1.200.000 đồng. Sau khi xảy ra tai nạn có đến điện máy xanh xin chứng từ mua điện thoại và xin báo giá sửa là 900.000 đồng nên yêu cầu bồi thường giá 900.000 đồng trên cơ sở tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án.

Trước đây, Anh G là công nhân của Công ty may Việt Tân có mức thu nhập lương cơ bản 3.652.000 đồng và có tăng ca làm thêm nên thu nhập tháng 4.000.000 đồng nhưng ngày 14/4/2019 đã chấm dứt hợp đồng lao động. Anh G xác định tại thời điểm bị tai nạn giao thông, không còn làm công nhân mà chỉ buôn bán tại chợ, có mức thu nhập lợi nhuận ngày 200.000 đồng nên yêu cầu bồi thường ngày công lao động 04 ngày bằng 800.000 đồng.

Nay rút khởi kiện đối với bà M, yêu cầu chị P và chị P cùng liên đới với Tiểu Y bồi thường nằm viện điều trị 911.748 đồng, chi phí ngày công lao động bị mất 04 ngày bằng 800.000 đồng; Chi phí sửa xe là 7.886.000 đồng, sửa điện thoại 900.000 đồng, đôi giày 450.000 đồng; Rút bồi thường áo khoác trị giá 250.000 đồng trên cơ sở tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án xem xét.

Tại phiên tòa sơ thẩm vắng mặt bà P, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng lần thứ nhất vào ngày 11/9/2020, lần hai vào ngày 06/10/2020, lần ba vào ngày 02/11/2020, để tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 29/9/2020, lần hai ngày 21/10/2020 và lần ba vào ngày 20/11/2020 nhưng bà P vắng mặt, không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm vắng mặt Tiểu Y, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng lần thứ nhất vào ngày 11//9/2020, lần hai vào ngày 05 và ngày 8/10/2020, lần ba vào ngày 27/10/2020, ngày 02/11/2020, để tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 29/9/2020, lần hai ngày 21/10/2020 và lần ba vào ngày 20/11/2020 nhưng chị Yến vắng mặt, không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm vắng mặt bà Phương, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng lần thứ nhất vào ngày 06/10/2020, lần hai vào ngày 22/10/2020, để tham gia phiên tòa sơ thẩm lần hai ngày 21/10/2020 và lần ba vào ngày 20/11/2020 nhưng bà Phương vắng mặt, không có lý do.

Tại phiên tòa sơ thẩm vắng mặt bà M, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng lần thứ nhất vào ngày 09/9/2020, lần hai vào ngày 06/10/2020, lấn ba vào ngày 27/10/2020, ngày 02/11/2020, để tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 29/9/2020, lần hai ngày 21/10/2020 và lần ba vào ngày 20/11/2020 nhưng bà M vắng mặt, không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố VĨNH L, phát biểu:Từ khi thụ lý cho đến quyết định đưa vụ án ra xét xử, các trình tự thủ tục tố tụng khác trong quá trình thụ lý, xét xử sơ thẩm đều tuân theo pháp luật qui định.

Về nội dung, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Anh G. Buộc chị P và chị P cùng liên đới bồi thường cho Anh G chi phí thiệt hại thời gian điều trị vết thương 911.748 đồng, tiền mất thu nhập 04 ngày công lao động 800.000 đồng, đôi giày 450.000 đồng, chi phí sửa xe 3.287.000 đồng; Không chấp nhận đòi bồi thường chi phí sửa điện thoại di động; Đình chỉ giải quyết yêu cầu bà Mươi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và đình chỉ giải quyết đối với tài sản áo khoát nam trị giá 250.000 đồng.

Về án phí sơ thẩm,chị P, chị P, Tiểu Y chịu án phí theo qui định pháp luật. Anh G phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự 30.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Nguyên đơn khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe, về tài sản. Bị đơn cư trú tại địa phận thành phố VĨNH L. Xét đây là tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 6 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Ngày 26/02/2020 là ngày biết được quyền, lợi ích bị xâm phạm. Ngày 27/02/2020 Anh G khởi kiện tại Tòa án. Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật dân sự năm 2015 đang hiện hành để giải quyết và căn cứ Điều 588 Bộ luật dân sự, thời hiệu khởi kiện nêu trên còn trong thời hạn.

- Tòa án đã thông báo số:721 ngày 31/7/2020 yêu cầu bà M,chị P và Tiểu Y cung cấp giấy kết hôn của chị P, thông tin về cha ruột của Tiểu Y nhưng không có phản hồi. Đồng thời, qua xác minh ngày 27/8/2020 bà M cho biết, không biết họ tên, địa chỉ của cha ruột Tiểu Y. Tòa án thu thập chứng cứ về giấy kết hôn của chị P và giấy khai sinh của Tiểu Y nhưng Ủy ban nhân dân phường 8 kiểm tra hộ tịch không có thông tin này. Do đó, không có căn cứ để đưa cha ruột của Tiểu Y tham gia tố tụng với T cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo khoản 4 Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nguyễn Tiểu Y, chị Nguyễn Thị P, chị Nguyễn Thị Hồng P, bà Nguyễn Thị M đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt, không lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, hội đồng xét xử tiến hành mở phiên tòa xét xử theo luật định.

- Anh G rút khởi kiện đối với bà M về việc bồi thường thiệt hại sức khỏe, tài sản. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với bà M.

- Anh Anh G rút bồi thường thiệt hại tài sản Áo khoát Nam trị giá 250.000 đồng đối với chị P, chị P, Tiều Yến. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết về phần tài sản nêu trên.

[2]. Tai nạn giao thông xảy ra vào ngày 31/01/2020, tại đường Phạm Hùng, phường 9, thành phố VĨNH L, do Anh G điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát số 63B2-75.511 và bé Tiểu Y lái xe Môtô 64C1- 137.40 va vào nhau. Hậu quả Anh G bị thương tích. Đội cảnh sát giao thông trật tự thuộc Công an nhân dân thành phố Vĩnh L, xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn là do lỗi của lái xe môtô 64C1- 137.40 chưa đủ tuổi điều khiển xe tham gia giao thông và chuyển hướng không báo tín hiệu báo tín hiệu; Lái xe môtô 63B1-755.11 không có lỗi.

Về trách nhiệm bồi thường, Tòa án đã thu thập chứng cứ về độ tuổi của Tiểu Y thì tại công văn số:35 ngày 20/8/2020 của Ủy ban nhân dân phường 8 thành phố Vĩnh L thì không có thông tin về đăng ký kết hôn của bà P và khai sinh của Tiểu Y nhưng phía Cơ quan Công an phường 8 thành phố VĨNH L quản lý hộ khẩu thể hiện Tiểu Y sinh năm 2006. Như vậy, đủ căn cứ xác định tại thời điểm tai nạn giao thông, bé Tiểu Y chưa đủ 15 tuổi đã tự điều khiển xe môtô 64C1- 137.40 thuộc chủ quyền của chị P, lỗi của chị P là không bảo quản, trông giữ nguồn nguy hiểm cao độ này. Mặt khác, Tòa án đã thông báo số:721 ngày 31/7/2020 yêu cầu chị P, bà M, Tiểu Y cung cấp chứng cứ và thông tin về cha ruột Tiểu Y, về điều kiện thu nhập kinh tế, tài sản riêng của Nguyễn Tiểu Y nhưng không có ý kiến phản hồi. Do đó chị P phải chịu mọi hậu quả do không chứng minh được theo quy định theo tại khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bà M là bà ngoại của Tiểu Y không có trách nhiệm bồi thường trong vụ kiện này. Vì vậy, chị P và chị P cùng liên đới có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định tại Điều 586, Điều 601 Bộ luật dân sự.

Do mức độ lỗi của Tiểu Y là 100% nên chị P, chị P cùng liên đới bồi thường thiệt hại thực tế cho Anh G, chị Nương tương ứng với phần lỗi nêu trên theo quy định tại Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 589, 590 Bộ luật dân sự, xem xét xác định thiệt hại như sau:

* Xét yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về sức khỏe và mất thu nhập ngày công lao động:

+ Thời gian nằm viện điều trị 04 ngày (từ 31/01/2020 đến ngày 03/02/2020), đã chi phí chứng từ hợp lệ tổng cộng là 911.748 đồng (Chín trăm mười một nghìn bảy trăm bốn mươi tám đồng).

+ Tiền mất thu nhập ngày công lao động 04 ngày x 200.000 đồng bằng 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng).

*Xét thiệt hại về tài sản: Chi phí hợp lí như đôi giày 450.000 đồng. Còn đối với những hóa đơn, chứng từ sửa xe được đối chiếu với biên bản khám nghiệm phương tiện thì Anh G sửa xe các phụ kiện không hợp lệ gồm: Đèn pha 3.510.000 đồng, đề trước 240.000 đồng, đĩa thắng 426.000 đồng, óp sàn dưới 213.000 đồng, óp sàn dưới trái 210.000 đồng nên không được chấp nhận phần này. Phần thiệt hại còn lại theo phiếu đặt hàng ngày 16/02/2020 được chấp nhận là 3.287.000 đồng. Tổng thiệt hại tài sản là 3.737.000 đồng ( Ba triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Riêng điện thoại di động, Anh G cho rằng đã chi phí sửa điện thoại giá 900.000 đồng nhưng không không có hóa đơn chứng từ chứng minh, không thực hiện nghĩa vụ chứng minh mức độ hư hỏng và chi phí sửa chữa nêu trên. Do đó không có cơ sở chấp nhận.

*Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 ; điểm d khoản 1 Điều 12 và Điều 26 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội.

- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe, ngày công lao động các đương sự được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm dân sự. Vì vậy, Anh G, chị Nương, chị P,chị P, bà M không phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự.

- Đối với thiệt hại tài sản, Anh G không được chấp nhận khoản chi phí sửa điện thoại di động 900.000 đồng và chi phí sửa xe 4.608.000 đồng. Tổng cộng 5.508.000 đồng nên phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số N0 0005314 ngày 02/4/2020 của cơ quan Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vĩnh L; Ông Giang đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm dân sự.

Chị P và chị P cùng liên đới bồi thường tổng thiệt hại tài sản là 3.737.000 đồng thì phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ vào các Điều Điều 586, Điều 601, Điều 584, Điều 585, 589, 590, 588 Bộ luật dân sự; Điều 12 và Điều 26 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội; Các Điều 147, 227, 48, 244 Bộ luật Tố tụng dân sự của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tuyên xử:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn G.

Buộc chị Nguyễn Thị P và chị Nguyễn Thị Hồng P cùng liên đới bồi thường thiệt hại về sức khỏe và ngày công lao động. Tổng cộng 1.711.700 đồng (Một triệu bảy trăm mười bảy một nghìn bảy trăm đồng), cho anh Nguyễn Văn G và chị Nguyễn Thị Cẩm N.

Buộc chị Nguyễn Thị P và chị Nguyễn Thị Hồng P cùng liên đới bồi thường thiệt hại tài sản tổng cộng đồng 3.737.000 đồng (Ba triệu bảy trăm ba mươi bảy nghìn đồng) cho anh Nguyễn Văn G và chị Nguyễn Thị Cẩm N.

- Không chấp nhận bồi thường thiệt hại chi phí sửa chữa điện thoại di động 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng).

- Đình chỉ giải quyết đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với bà Nguyễn Thị M.

- Đình chỉ giải quyết về phần tài sản Áo khoát (nam) trị giá 250.000 đồng đối với chị P, chị P, Tiểu Y.

II. Về án phí sơ thẩm: Anh G, chị Nương, chị P, chị P, bà M không phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự về bồi thường thiệt hại sức khỏe, ngày công lao động.

- Anh G phải chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số N0 0005314 ngày 02/4/2020 của cơ quan Chi cục thi hành án dân sự thành phố VĨNH L; Ông Giang đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm dân sự.

- Chị P và chị P cùng liên đới chịu tiền án phí sơ thẩm dân sự là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Án xử công khai có mặt Anh G, chị Nương, vắng mặt bị đơn và người liên quan. Báo cho các bên đương sự biết, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt thì được tính từ ngày nhận bản án hoặc ngày niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

567
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2020/DS-ST ngày 20/11/2020 về việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Số hiệu:132/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về