Bản án 132/2019/HNGĐ-ST ngày 09/10/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU 

BẢN ÁN 132/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/10/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 09 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 468/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 154/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Kim H, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp TLB, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau

- Bị đơn: Anh Lương Quốc Ch, sinh năm 1981 Địa chỉ: ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị H và anh Ch có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21/9/2020, lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trần Kim H và bị đơn anh Lương Quốc Ch cùng thống nhất trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch thống nhất xác định anh chị đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục tại địa phương vào năm 2000, nhưng đến nay anh chị vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị H và anh Ch thống nhất xác định: Trong quá trình chung sống giữa vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, cự cãi với nhau, vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 18 năm, trong thời gian vợ chồng sống xa nhau không ai quan tâm ai hay tìm biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay anh chị nhận thấy vợ chồng không còn khả năng tiếp tục chung sống với nhau, vợ chồng không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị H và anh Ch yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn với nhau.

Về con chung: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch thống nhất xác định trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 người con chung tên Lương Thanh M, sinh năm 2000 và Lương Thiên M, sinh ngày 24/3/2002. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động, nên khi ly hôn chị H và anh Ch không đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch thống nhất xác định trong thời gian chung sống không có tài sản chung và nợ chung. Khi ly hôn chị H và anh Ch không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch.

Về con chung: Do các con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch không đặt ra yêu cầu nên nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị Trần Kim H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị Trần Kim H có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Lương Quốc Ch. Anh Lương Quốc Ch có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch chung sống với nhau vào năm 2000, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, đến nay thì anh chị đã có con chung, nhưng vẫn chưa đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy việc không đi đăng ký kết hôn giữa chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch là đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…” Do đó theo quy định của pháp luật thì hôn nhân giữa chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nay chị Trần Kim H xin ly hôn với anh Lương Quốc Ch thì Hội đồng xét xử không giải quyết cho chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch ly hôn với nhau, mà cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định tại khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Do các con chung đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch không đặt ra yêu cầu nên nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Trần Kim H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm b khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch là vợ chồng.

2/. Về con chung: không xem xét giải quyết.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: không xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị Trần Kim H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007862 ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Trần Kim H và anh Lương Quốc Ch được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2019/HNGĐ-ST ngày 09/10/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:132/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về