Bản án 13/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG HÒA - TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 13/2021/HSST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ PHỤ GIA THỰC PHẨM

Trong ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đông Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2020/HSST ngày 18 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03A/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

Nguyễn Thị T, sinh năm 1971; ĐKTT: 241 L, Phường 5, thành phố H, tỉnh Phú Yên; Chỗ ở: Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Con ông: Nguyễn H, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1950; Gia đình có bảy chị em, bị cáo là con thứ hai; Chồng: Phạm Minh H, sinh năm: 1972; Có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Phạm Minh H, sinh năm 1972; ĐKTT: 241 L, Phường 5, thành phố H, tỉnh Phú Yên; Chỗ ở: Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Phạm Thái H, sinh năm 1929 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1945; Gia đình có ba anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1971;

Có 02 con, lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Lê Văn T, sinh năm 1972; Trú tại: Thôn Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

- Võ Thị Nhị H, sinh năm 1980; Trú tại: Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

- Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; Trú tại: Thôn Đ, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

 - Nguyễn Thị L, sinh năm 1973; Trú tại: Thôn L 2, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

 - Phạm Trọng H, sinh năm 1978; Trú tại: Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 10/2019, Nguyễn Thị T nảy sinh ý định làm giả bột ngọt hiệu Miwon và Ajinomoto để bán kiếm lời. T mua cân, máy ép bao bì và bao ni lông có in nhãn hiệu Miwon, Ajinomoto, sau đó mua bột ngọt nguyên liệu loại 25kg/bao có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài với giá 770.000 đồng/bao của Lê Văn T tại chợ Phú Lâm, thành phố H đem về nhà tại thôn L 1, xã H, thị xã Đ cùng chồng là Phạm Minh Hoàng dùng muỗng tự chế xúc bột ngọt nguyên liệu vào bao bì nhãn hiệu Miwon, Ajinomoto các loại 100g, 140g, 400g, 1kg, 2kg tạo thành phẩm là bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon, Ajinomoto đem đi bán cho các tiệm tạp hóa.

Trong thời gian từ tháng 10/2019, T đã mua của T 52 bao bột ngọt nguyên liệu về bán lại cho người tiêu dùng và còn lại chiết đóng gói giả bột ngọt hiệu Miwon và Ajinomoto bán lại cho các chủ tạp hoá do T giao dịch là Nguyễn Thị H, sinh năm 1974; Phạm Trọng H, sinh năm 1978 cùng trú tại thôn L 1; Đặng Thị L, sinh năm 1973 trú tại thôn L 2, xã T, thị xã Đ nhiều lần (số lượng không nhớ), với giá (loại 100g giá 4.300 đồng; loại 140g giá 6.500 đồng; loại 400g giá 15.500 đồng; loại 1kg giá 37.000 đồng và loại 2 kg giá 77.000 đồng) thu lợi bất chính 2.500.000 đồng.

Lúc 20 giờ ngày 07/01/2020, H đang điều khiển xe mô tô biển số 78C1- 062.86 (do H đứng tên sở hữu) chở bột ngọt đi tiêu thụ thì bị Công an thị xã Đông Hoà kiểm tra phát hiện thu giữ 05 gói bột ngọt nhãn hiệu MiWon loại 02kg/gói;

100 gói bột ngọt nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói, 20 gói bột ngọt nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói, 05 gói bột ngọt nhãn hiệu Ajnomoto loại 01kg/gói không có hoá đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ. H khai đây là bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon và Ajinomoto. Thu giữ tại nhà 01 máy ép bao bì nhãn hiệu Tân Thanh, 01 cái muỗng nhựa tự chế màu vàng, 01 cái thau nhựa đường kính 60cm, 01 cái cân nhãn hiệu Nhơn Hoà loại 2kg, 105 túi nilong có ghi chữ Miwon gồm: 5 túi 100g, 100 túi 2kg, 2.140 túi nilong có ghi Ajinomoto gồm: 1.238 túi 100g, 572 túi 140g, 150 túi 454g, 153 túi 1kg, 51 vỏ bao bột ngọt nguyên liệu loại 25kg/bao có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài đã sử dụng còn 19kg.

Tại Thông báo kết quả giám định số 0016a/N3.20/TĐ và số 0016b/N3.20/TĐ ngày 06/3/2020 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 kết quả giám định như sau: Mẫu giám định bột ngọt hiệu Ajinomoto, Miwon và kết quả kiểm tra bao bì và kết quả thử nghiệm khác với kết quả kiểm tra và thử nghiệm tương ứng của mẫu so sánh do Công ty TNHH Miwon Việt Nam và Công ty Ajinomoto Việt Nam cung cấp; Mẫu giám định bột ngọt không nhãn phụ khác với mẫu so sánh do Công ty TNHH Miwon Việt Nam và Công ty Ajinomoto Việt Nam cung cấp.

Tại Công văn số 1456/KT3-N3 ngày 23/06/2020 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 3 trả lời kết quả : Mẫu giám định là bột ngọt.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 23/HDĐG ngày 16/6/2020 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Đông Hoà kết luận: 05 gói bột ngọt ghi nhãn hiệu Miwon loại 02kg/gói; 100 gói bột ngọt ghi nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói; 05 gói bột ngọt ghi nhãn hiệu Ajinomoto loại 01kg/gói; 120 gói bột ngọt ghi nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói; 50 gói bột ngọt ghi nhãn hiệu Ajinomoto loại 140gam/gói có tổng giá trị 5.190.000 đồng so với giá hàng thật cùng loại.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền thu lợi bất chính 2.500.000đồng tại biên lai thu tiền số 0001879 ngày 01/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa.

Về vật chứng: 01 xe mô tô biển kiểm soát 78C1-062.86, số khung 2700BY370096, số máy JF27E1216509, tình trạng đã qua sử dụng.

- 02 cân đồng hồ, màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 02kg.

- 01 máy ép miệng bao bì, màu xanh nhãn hiệu Tân Thanh.

- 01 muỗng nhựa tự chế màu vàng.

- 01 thau nhựa, đường kính 60cm, màu đỏ.

- 117 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói (sau giám định); 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 01kg/gói; 50 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 140g/gói; 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 02kg/gói; 91 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói (sau giám định); 01 bao nguyên liệu bột ngọt loại 25kg, có in hình 2 con tôm, chữ nước ngoài, đã sử dụng một phần, còn lại 16kg (sau giám định).

- 105 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Miwon (gồm: 05 túi loại 100g, 100 túi loại 2kg); 2.140 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Ajinomoto (gồm: 153 túi loại 1kg, 150 túi loại 454g, 27 túi loại 400g, 1238 túi loại 100g, 572 túi loại 140g); 51 vỏ bao nguyên liệu loại 25kg/bao, có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài, không xác định nhãn hiệu.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKSĐH ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị T, Phạm Minh H về tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm” theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLHS Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa luận tội: giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi phân tích hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo; đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị T, Phạm Minh H phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”. Áp dụng: khoản 1 Điều 193, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H) và Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Thị T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Bị cáo Phạm Minh H 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm 06 tháng tháng đến 03 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo cho UBND xã T, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên giám sát giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp hợp với UBND xã T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: Số tiền 2.500.000đồng tại biên lai thu tiền số 0001879 ngày 01/12/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa;

01 xe mô tô biển kiểm soát 78C1-062.86, số khung 2700BY370096, số máy JF27E1216509, tình trạng đã qua sử dụng; 02 cân đồng hồ, màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 02kg; 01 máy ép miệng bao bì, màu xanh nhãn hiệu Tân Thanh.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 muỗng nhựa tự chế màu vàng; 01 thau nhựa, đường kính 60cm, màu đỏ; 117 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói (sau giám định); 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 01kg/gói; 50 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 140g/gói; 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 02kg/gói; 91 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói (sau giám định);

01 bao nguyên liệu bột ngọt loại 25kg, có in hình 2 con tôm, chữ nước ngoài, đã sử dụng một phần, còn lại 16kg (sau giám định); 105 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Miwon (gồm: 05 túi loại 100g, 100 túi loại 2kg); 2.140 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Ajinomoto (gồm: 153 túi loại 1kg, 150 túi loại 454g, 27 túi loại 400g, 1238 túi loại 100g, 572 túi loại 140g); 51 vỏ bao nguyên liệu loại 25kg/bao, có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài, không xác định nhãn hiệu.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo: Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp các kết luận giám định số 0016a/N3.20/TĐ và số 0016b/N3.20/TĐ ngày 06/3/2020 của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn do lường chất lượng 3, phù hợp với vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2019 đến ngày 07/01/2020 tại thôn Thôn L 1, xã H, thị xã Đ, tỉnh Phú Yên; Nguyễn Thị T cùng chồng Phạm Minh H có hành vi sản xuất, buôn bán bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon của Công ty TNHH Miwon Việt Nam và bột ngọt Ajinomoto của Công ty Ajinomoto Việt Nam thu lợi bất chính số tiền 2.500.000 đồng.

Cáo trạng số 02/CT-VKSĐH ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa truy tố các bị cáo về tội: “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm” theo quy định tại khoản 1 Điều 193 BLHS Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.1] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức được việc sản xuất, buôn bán hàng giả là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức kinh tế, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất buôn bán hàng hóa, chống hàng giả của các cơ quan quản lý nhà nước, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng. Nhưng do hám lợi, cáo bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả để thu lợi bất chính. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ do hành vi của bị cáo gây ra và tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án, cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đã chủ động nộp lại toàn bộ số tiền thu lợi bất chính 2.500.000đồng; giá trị hàng giả khi bắt quả tang không lớn, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt: Trong vụ án này, giữa bị cáo T và bị cáo H có mối quan hệ vợ chồng, các bị cáo không bàn bạc từ trước nhưng đều thống nhất việc mua bột ngọt nguyên liệu để về đóng gói giả bột ngọt nhãn hiệu Ajinomoto và Miwon đem đi bán nhằm thu lợi bất chính. Trong vụ án này bị cáo T đóng vai trò chính, tham gia nhiều vai trò và tích cực hơn bị cáo H nên mức hình phạt của bị cáo T phải cao hơn bị cáo H.

Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng; có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Hòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H: người phạm tội lần đầu, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Xét thấy, bị cáo H tuy không có ý định từ trước cùng với bị cáo T nhưng vẫn thống nhất giúp sức trong việc sản xuất, đóng gói bột ngọt giả và trực tiếp đi giao hàng có vai trò tích cực giúp sức. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS đối với bị cáo H.

[5] Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 193 BLHS phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Minh H mỗi bị cáo 20.000.000đồng;

[6 ] Về phần bồi thường thiệt hại: Công ty Ajinomoto và Miwon không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo thu lợi bất chính số tiền 2.500.000đồng nên buộc các bị cáo phải nộp số tiền này để sung ngân sách Nhà nước.

[8] Về vật chứng vụ án:

[8.1] Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 xe mô tô biển kiểm soát 78C1-062.86, số khung 2700BY370096, số máy JF27E1216509, tình trạng đã qua sử dụng; 02 cân đồng hồ, màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 02kg; 01 máy ép miệng bao bì, màu xanh nhãn hiệu Tân Thanh (phương tiện, công cụ liên quan đến hành vi phạm tội).

[8.2] Tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng: 01 muỗng nhựa tự chế màu vàng; 01 thau nhựa, đường kính 60cm, màu đỏ; 117 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói (sau giám định); 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 01kg/gói; 50 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 140g/gói; 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 02kg/gói; 91 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói (sau giám định); 01 bao nguyên liệu bột ngọt loại 25kg, có in hình 2 con tôm, chữ nước ngoài, đã sử dụng một phần, còn lại 16kg (sau giám định); 105 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Miwon (gồm: 05 túi loại 100g, 100 túi loại 2kg); 2.140 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Ajinomoto (gồm:

153 túi loại 1kg, 150 túi loại 454g, 27 túi loại 400g, 1238 túi loại 100g, 572 túi loại 140g); 51 vỏ bao nguyên liệu loại 25kg/bao, có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài, không xác định nhãn hiệu.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Hòa và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa.

[9] Về các vấn đề khác:

[9.1] Đối với Lê Văn T, quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thị T khai nhận có mua bao bì in nhãn hiệu Ajinomoto và Miwon của T nhưng T không thừa nhận. Quá trình điều tra chưa làm rõ được nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xử lý sau.

[9.2] Đối với hành vi Nguyễn Thị H, Đặng Thị L, Phạm Trọng H có hành vi mua bột ngọt giả của các bị cáo T và H bán cho người tiêu dùng nhưng không biết các bị cáo sản xuất, buôn bán bột ngọt giả nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý là đúng quy định pháp luật.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T, Phạm Minh H phạm tội Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”.

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 193, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 và Điều 65 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thâm.

- Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 02 (hai) năm tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm kể từ ngày tuyên án sơ thâm.

Giao bị cáo cho UBND xã Hòa Thành, thị xã Đông Hòa, tỉnh Phú Yên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách , gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục đối với bị cáo . Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 193 Bộ luật hình sự, - Phạt bị cáo Nguyễn Thị T 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

- Phạt bị cáo Nguyễn Minh H 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng).

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo Nguyễn Thị T, Nguyễn Minh H nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.500.000đồng. (Các bị cáo đã nộp tại biên lai thu tiền số 0001879 ngày 01/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa.)

4. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điêu 106 Bộ luật tố tụng hình sự , - Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô biển kiểm soát 78C1- 062.86, số khung 2700BY370096, số máy JF27E1216509, tình trạng đã qua sử dụng; 02 cân đồng hồ, màu xanh nhãn hiệu Nhơn Hòa loại 02kg; 01 máy ép miệng bao bì, màu xanh nhãn hiệu Tân Thanh.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 muỗng nhựa tự chế màu vàng; 01 thau nhựa, đường kính 60cm, màu đỏ; 117 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 400g/gói (sau giám định); 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 01kg/gói; 50 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Ajinomoto loại 140g/gói; 05 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 02kg/gói; 91 gói bột ngọt giả nhãn hiệu Miwon loại 100g/gói (sau giám định);

01 bao nguyên liệu bột ngọt loại 25kg, có in hình 2 con tôm, chữ nước ngoài, đã sử dụng một phần, còn lại 16kg (sau giám định); 105 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Miwon (không chứa gì bên trong gồm: 05 túi loại 100g, 100 túi loại 2kg); 2.140 túi ni lông màu trắng, có ghi chữ Ajinomoto (không chứa gì bên trong gồm: 153 túi loại 1kg, 150 túi loại 454g, 27 túi loại 400g, 1238 túi loại 100g, 572 túi loại 140g); 51 vỏ bao nguyên liệu loại 25kg/bao, có in hình 2 con tôm và chữ nước ngoài, không xác định nhãn hiệu.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Hòa và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Đông Hòa.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, Các bị cáo Nguyễn Thị T, Phạm Minh H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

581
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HSST ngày 29/04/2021 về tội sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm

Số hiệu:13/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về