Bản án 13/2021/HS-ST ngày 25/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2021/TLST- HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Trung K, sinh năm 1979.

Nơi đăng ký HKTT: khu XH, thị trấn XM, huyện C, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: thôn T, xã TXT, huyện C, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L tên gọi khác Phạm Vũ L (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ: Chưa; có 01 con sinh năm 2020; Danh chỉ bản số 465 lập ngày 28/8/2020 tại Công an huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

Tiền án: Có 02 tiền án - Ngày 19/8/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội) xử phạt 08 (Tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong ngày 01/4/2009.

- Ngày 28/4/2010 bị Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xử phạt 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 29/9/2017.

Tiền sự: không Nhân thân:

Ngày 23/11/1996 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã được xóa án tích Ngày 29/12/1999 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục Suối Hai 24 tháng. Chấp hành xong ngày 11/01/2002.

Bị bắt, tạm giữ từ ngày 25/8/2020 đến ngày 26/8/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiện bị can đang tại ngoại tại địa phương.

Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1985 Nơi cư trú: thôn YT, xã TY, huyện C, TP Hà Nội.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 16 phút ngày 25/8/2020, Phạm Trung K đang ngồi chơi tại khu XH, thị trấn XM, huyện C, Thành phố Hà Nội thì nhận được điện thoại của Nguyễn Xuân D, qua điện thoại D hỏi mua của K 300.000 đồng ma túy đá, K nhất trí và hẹn D đến khu vực phố G, xã ĐS, huyện C, Thành phố Hà Nội để giao dịch mua bán ma túy. Sẵn có ma túy trong người, K đi ra khu vực phố G, xã ĐS, huyện C, Thành phố Hà Nội. Đến 12 giờ 45 phút K gặp D, K lấy 01 gói ma túy đá đưa cho D, D nhận gói ma túy đá và đưa cho K 300.000 đồng. K vừa cầm tiền thì bị Đội Cảnh sát về Ma túy Công an huyện Chương Mỹ phối hợp với Công an xã ĐS, huyện C bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ của D 01 túi ni lon màu trắng, kích thước (1x1,5) cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy tồng hợp dạng đá (niêm phong trong phong bì mẫu số 01).

- Thu giữ của K 06 túi ni lon màu trắng đều có kích thước (1x1,5) cm, bên trong đều có chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hộ dạng đá (niêm phong trong phong bì mẫu số 02).

- Thu giữ của K 06 gói nhỏ gói bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long đều có kích thước (1x0,5)cm, bên trong đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy loại heroin (niêm phong trong phong bì mẫu số 03).

- 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - 02 điện thoại di động hiệu NOKIA đã cũ.

- 01 lọ nhựa màu trắng Tại bản kết luận giám định số 7763/KLGĐ-PC09 ngày 01/9/2020, của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:

*Tang vật thu giữ của Nguyễn Xuân D gồm:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông (ký hiệu Mẫu số 01) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,027gam.

*Tang vật thu giữ của Phạm Trung K gồm:

- Tinh thể màu trắng bên trong 06 túi nilong màu trắng (ký hiệu Mẫu số 02) đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,551gam - Chất bột màu trắng bên trong 06 gói giấy bằng vỏ bao thuốc lá Thăng Long (ký hiệu Mẫu số 03) đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,254gam”.

Cáo trạng số 07/CT-VKS-CM ngày 15/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố bị cáo Phạm Trung K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, - Bị cáo Phạm Trung K đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ giữ nguyên quan điểm truy tố. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Phạm Trung K từ 08 năm đến 09 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ; tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng thu giữ của Phạm Trung K; tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước 02 điện thoại di động đã thu giữ. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của cơ quan truy tố, về hành vi tố tụng của Điều tra viên, của Kiểm sát viên: Đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam; thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; các biện pháp điều tra như lấy lời khai bị can và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, lấy lời khai người làm chứng, thu giữ vật chứng, trưng cầu giám định, giao nhận các văn bản tố tụng cho bị can. Các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập đầy đủ, đúng trình tự theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên không mớm cung, ép cung, bức cung, dùng nhục hình đối với bị can. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2]. Về sự vắng mặt của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Xuân D: Anh D đã có lời khai trong quá trình điều tra nên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Xem xét lời khai của bị cáo Phạm Trung K phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 12 giờ 45 phút, ngày 25/8/2020 tại khu vực phố G, xã ĐS, huyện C, Thành phố Hà Nội, Phạm Trung K đã có hành vi mang theo 07 túi ma tuý tổng hợp loại Methamphetamine tổng khối lượng 0,578 gam và 06 gói ma túy loại heroin tổng khối lượng 0,254 gam nhằm mục đích bán trái phép cho người khác. Khi K vừa bán trái phép 0,027 gam ma túy loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng cho Nguyễn Xuân D thì bị Công an huyện Chương Mỹ bắt quả tang.

Hành vi bán trái phép 0,027 gam ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Xuân D mà bị cáo Phạm Trung K thực hiện đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bản thân bị cáo đã có 02 tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên lần phạm tội này của Phạm Trung K thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung theo quy định tại điểm q khoản 2 điều 251 Bộ luật Hình sự.

Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố Phạm Trung K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất ổn định tình hình trật tự tại địa phương và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tệ nạn xã hội cũng như các tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 23/11/1996 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tây xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/12/1999 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục Suối Hai với thời hạn 24 tháng. Bị cáo đã có thời gian được giáo dục, cải tạo nhưng không chịu sửa chữa nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Do vậy, cần phải có hình phạt tù nghiêm và có thời gian cách ly bị cáo với xã hội đủ để giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như phòng ngừa chung.

[2.2] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, gia đình khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” nhưng đã là tình tiết định khung nên không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm nguy hiểm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[2.4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[2.5] Về nguồn gốc ma túy:

Phạm Trung K khai mua của một người nam giới không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chương Mỹ không có cơ sở để xác minh, điều tra xử lý.

Đối với Nguyễn Xuân D đã có hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, bản thân D chưa có tiền án, tiền sự nên hành vi trên của D chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Công an huyện Chương Mỹ đã ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Nguyễn Xuân D theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 là có căn cứ.

[3]. Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; số tiền 300.000 đồng thu giữ trong người Phạm Trung K là tiền Phạm Trung K bán trái phép ma túy cho Nguyễn Xuân D và là tang vật của vụ án nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước; 02 điện thoại di động thu giữ của Phạm Trung K và Nguyễn Xuân D là phương tiện sử dụng để liên lạc mua bán ma túy nên cần tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước.

[4]. Về án phí: Bị cáo Phạm Trung K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Trung K phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm q khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử ph¹t Phạm Trung K 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 25/8/2020 đến ngày 26/8/2020.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, bên ngoài có các chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Hùng, chữ ký của cán bộ Dương Đức Cường và chữ ký của Phạm Trung K và Nguyễn Xuân D.

+ Tịch thu tiêu hủy 02 (Hai) phong bì do Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hà Nội, bên ngoài có các chữ ký của Giám định viên Nguyễn Văn Hùng, chữ ký của cán bộ Dương Đức Cường và chữ ký của Phạm Trung K.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 lọ nhựa màu trắng.

+ Tịch thu phát mại sung ngân sách Nhà nước 02 (Hai) điện thoại di động: 01 Điện thoại di động Nokia model C1-02i màu đen đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động Nokia model TA – 1034 màu xanh đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản ngày 19/01/2021 giữa Công an huyện Chương Mỹ với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội).

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 300.000 đồng (Bằng chữ: Ba trăm nghìn đồng) thu giữ của Phạm Trung K.

(Hiện đang lưu giữ trong tài khoản của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Chương Mỹ tại kho bạc Nhà nước huyện Chương Mỹ theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 19/01/2021.)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Trung K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:

Bị cáo Phạm Trung K có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Xuân D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ tại nơi cư trú

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HS-ST ngày 25/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về