TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 13/2021/HS-PT NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 11/2021/TLPT-HS ngày 27/01/2021 đối với bị cáo A do có kháng cáo của bị cáo A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
A, sinh ngày 06/11/2000, tại thành phố X, tỉnh An Giang; nơi cư trú: số 20 đường số 2, khóm P 8, phường M, thành phố X, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông T, sinh năm 1953 và bà M (đã chết); bị cáo chưa có vợ con; nhân thân: từ nhỏ đến lớn sống chung với cha mẹ đi học hết lớp 6 thì nghỉ học; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12 tháng 9 năm 2020 đến nay.
Bị cáo có mặt.
- Bị hại: anh B, sinh ngày 08/6/2000; nơi cư trú: số 67/4 Tổ 4, khóm T 1, phường K, thành phố X, tỉnh An Giang, vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: anh C, sinh ngày 17/02/2002; nơi cư trú: số 53/7 khóm N, phường B, thành phố X, tỉnh An Giang, có mặt.
- Người làm chứng:
1. Chị D, sinh năm 1986, vắng mặt;
2. Em Đ, sinh năm 2003, vắng mặt;
Người đại diện hợp pháp của em Đ là ông E, sinh năm 1978, vắng mặt.
3. Anh H, sinh năm 1999, vắng mặt;
4. Chị G, sinh năm 2000, vắng mặt;
5. Em I, sinh năm 2004, vắng mặt;
Người đại diện hợp pháp của em I là bà K, sinh năm 1971, vắng mặt.
6. Em L, sinh năm 2003, vắng mặt;
Người đại diện hợp pháp của em L là bà M, sinh năm 1982, vắng mặt.
(Trong vụ án, bị cáo kháng cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 00 phút, ngày 18 tháng 12 năm 2019, B, Đ, H, L, G, I đang uống rượu tại quán Út Phương ở khóm T 2, phường K, thành phố X thì thấy A và Trong (không rõ họ, địa chỉ, bạn A) uống rượu ở bàn gần đó cự cãi đánh nhau. Thấy vậy, B, Đ, H, L đến can ngăn thì B bị A cự cãi. Sau đó, A điều khiển xe mô tô về nhà ở khóm P 8, phường M, thành phố X. Đến nhà, A gọi điện thoại cho P (bạn A) biết sự việc trên và kêu P đến nhà chở A đến quán Út Phương. Sau đó, P rủ và điều khiển xe mô tô chở C đến nhà của A. A khai, khi thấy P và C đến, A vào nhà lấy 01 con dao cán nhựa màu đen dài 13cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,9cm, nơi rộng nhất khoảng 4,2cm và 01 cây dũ 03 khúc cầm trên tay rồi lên xe mô tô ngồi phía sau C cho P điều khiển chở đến quán Út Phương. Đến đây, A xuống xe cầm dao và cây dũ 03 khúc đuổi chém B, còn Đ bỏ chạy nhảy xuống rạch X. A và B cầm dao chém nhau, B chém 01 nhát vào hạ sườn trái của A, còn A chém 01 nhát vào mặt sau cánh tay trái của B. B bỏ chạy bị trượt ngã trên lề đường nên bị A chém nhiều nhát trúng vào tay phải, mu bàn tay phải và lưng trái rồi lên xe mô tô ngồi phía sau C cho P chở đi. B được người thân đưa đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang điều trị thương tích đến ngày 06 tháng 01 năm 2020 ra viện.
Khoảng 16 giờ, ngày 31 tháng 3 năm 2020, A điều khiển xe mô tô đến quán cà phê Cát Tường ở khóm P 2, phường M thấy B đang ngồi uống nước với T, V, U (không rõ họ, địa chỉ) thì A vào cự cãi và dùng tay đánh vào mặt B nên B cùng Tường bỏ chạy. A lấy con dao bấm đuổi theo đâm 01 nhát trúng vào vùng thắt lưng của B; đâm 02 nhát vào vùng mông và đầu gối chân phải của T rồi bỏ đi. B và T được đưa đến Bệnh viện Đa khoa trung tâm An Giang điều trị đến ngày 03 tháng 4 năm 2020 ra viện.
* Vật chứng thu giữ gồm: 01 con dao cán nhựa màu đen dài 13cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,9cm, nơi rộng nhất khoảng 4,2cm, trên lưỡi dao có nhiều vết màu nâu; 01 áo khoác màu trắng, 01 nón lưỡi trai màu đen do A giao nộp.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 63/20/TgT ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với B, sinh năm 2000 (bị thương ngày 18 tháng 12 năm 2019), xác định:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Sẹo lưng trái kích thước (1,6x0,5cm), nằm ngang, thấu ngực, tràn máu tràn khí màng phổi trái, đã phẩu thuật dẫn lưu;
+ Sẹo mặt sau 1/3 dưới cánh tay phải kích thước (4,5x0,6cm);
+ Sẹo mặt sau cẳng – mu bàn tay phải kích thước (8,5x0,8cm), đứt gân duỗi ngón II – III – IV cổ tay phải, đã phẫu thuật khâu nối gân duỗi, ảnh hưởng ít đến vận động khớp cổ tay;
+ Sẹo mặt ngoài sau 1/3 giữa cánh tay trái kích thước (7,5x0,1cm) - Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 24%.
* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 265/20/TgT ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với B, sinh năm 2000 (bị thương ngày 31 tháng 3 năm 2020), xác định:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
Sẹo thắt lưng trái kích thước (1,7x0,3cm), bờ sắc gọn.
- Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%.
* Bản kết luận giám định số 27/KLGT-PC09(SH) ngày 07 tháng 9 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An Giang, xác định: Vết màu nâu dính trên con dao gửi giám định là máu người. Do dấu vết quá ít, không đủ để giám định xác định nhóm máu.
Cáo trạng số 139/CT-VKS ngày 25 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố X đã truy tố bị cáo A về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X đã quyết định:
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Cố ý gây thương tích”;
Xử phạt A 03 (ba) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 12 tháng 9 năm 2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Buộc bị cáo A bồi thường cho anh B số tiền 100.000.000 (Một trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/12/2020, bị cáo A kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Người thân của bị cáo A nộp cho Tòa án Biên lai thu số 0007117 ngày 29 tháng 01 năm 2021 có nội dung: “Tạm thu KPHQ cho A theo BA 133/2020/HS- ST”. Số tiền thu 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng. Người nộp tiền là N.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu quan điểm về vụ án và đề xuất với Hội đồng xét xử:
Về thủ tục kháng cáo: đơn kháng cáo của bị cáo có nội dung, yêu cầu rõ ràng, gửi trong hạn luật định nên đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, tài liệu, vật chứng, kết luận giám định. Từ đó cho thấy, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, bị cáo đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 24%. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là thanh niên trưởng thành, phải biết rõ đúng, sai, nhưng bị cáo đã sử dụng hung khí xâm phạm sức khỏe người khác. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ, xử phạt bị cáo 03 năm tù là tương xứng, đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.
Giai đoạn phúc thẩm, bị cáo nộp khắc phục số tiền 15.000.000 đồng, thể hiện thiện chí, nên có cơ sở áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bởi các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357, chấp nhận kháng cáo của bị cáo A, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo A từ 02 năm 09 tháng đến 02 năm 11 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Phiên tòa sơ thẩm xét xử và tuyên án vào ngày 21/12/2020. Ngày 24/12/2020, bị cáo A kháng cáo. Căn cứ khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Bị hại không kháng cáo, những người làm chứng vắng mặt, đều đã có lời khai rõ ràng tại hồ sơ nên căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo A đã có hành vi cố ý dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại B với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 24% (theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 63/20/TgT ngày 04 tháng 3 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang) và 01% (theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 265/20/TgT ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang).
Quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Bản kết luận giám định pháp y, các tài liệu, vật chứng trong hồ sơ vụ án.
Hành vi của bị cáo A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh này là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để quyết định xử phạt bị cáo 03 năm tù, trong khi khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 02 năm đến 06 năm tù. Quyết định hình phạt của cấp sơ thẩm là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Lẽ ra, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm để bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, xét thấy tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 100.000.000 (một trăm triệu) đồng. Đồng thời, ở giai đoạn phúc thẩm, bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng để bồi thường cho bị hại, nên có căn cứ áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát.
Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định chấp nhận kháng cáo của bị cáo A, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X, xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm 03 tháng tù cho bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: do sửa bản án hình sự sơ thẩm nên căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS- ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo A.
Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang.
Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo A phạm tội “Cố ý gây thương tích”;
Xử phạt bị cáo A 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày 12 tháng 9 năm 2020.
Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo A không phải chịu.
Tiếp tục tạm giữ số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng do N nộp theo biên lai thu tiền số 0007117 ngày 29/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X để đảm bảo thi hành án đối với phần bồi thường cho bị hại.
Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 133/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh An Giang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 13/2021/HS-PT ngày 23/03/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 13/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về