TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 13/2021/HS-PT NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 94/2020/TLPT-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn A đối với Bản án sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Tuấn A (tên gọi khác: Lít); sinh năm 1990, tại tỉnh K. Nơi cư trú: Tổ 1 V Đ, phường N, thành phố N, tỉnh K; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Hữu C, sinh năm: 1961 và bà Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm: 1968; tiền án: Ngày 11/9/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh K xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong ngày 27/4/2019; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/7/2008, bị Tòa án nhân dân tỉnh K xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong ngày 30/8/2020. Bị bắt tạm giam ngày 26/6/2020, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tuấn A: Luật sư Trần Thị Như Thủy, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2020, Nguyễn Tuấn A phát hiện khu vực sân phía Đông của tòa nhà V – Chi nhánh Phú Yên ở Phường 9, thành phố T, tỉnh Phú Yên có dựng nhiều xe môtô, Nguyễn Tuấn A đi đến dắt xe mô tô biển số 78C1-280.49 của anh Phạm Văn T lùi lại khoảng 02m rồi dùng đoản sắt phá khóa xe làm hư hỏng ổ khóa nhưng không mở khóa được nên Tuấn A quay lại vị trí cũ tiếp tục phá khoa xe môtô biển số 78C1 – 271.00 của chị Nguyễn Thị Thanh T, làm hư hỏng ổ khóa nhưng vẫn không mở khóa được, Tuấn A lại tiếp tục cạy khóa xe môtô biển số 78E1-009.93 của anh Nguyễn Văn Gi, thì mở được khóa xe. Sau khi mở được khóa xe, Tuấn A điều khiển xe môtô biển số 78E1-009.93 đi được một đoạn rồi mở cốp xe thấy bên trong có 15.000 đồng và một số tờ giấy, A lấy 15.000 đồng và tiếp tục đi. Khi đến đoạn gần ngã tư Quốc lộ 25 – Quốc lộ 1A thì xe bị hỏng nên Tuấn A đưa xe đến tiệm sửa xe của ông Trần Văn Tr ở xã H, huyện P để sửa xe và ngồi đợi tại đây. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, anh Phạm Văn T phát hiện xe môtô của mình mình bị cạy khóa không mở khóa xe được nên thông báo mội người trong công ty thì anh Nguyễn Văn Gi phát hiện xe môtô của mình bị mất nên mở hệ thống định vị lắp đặt trên xe thì phát hiện xe đang di chuyển trên Quốc lộ 1A, anh Gi đến Công an thành phố T để báo cáo sự việc. Đến 17 giờ 15 phút cùng ngày, anh Gi đến cùng lực lượng Công an thành phố T phát hiện bắt giữ Tuấn A cùng tang vật là xe môtô biển số 78E1-009.93 tại tiệm sửa xe của ông Trần Văn Tr.
Tại Bản kết luận ngày 30/6/2020, ngày 25/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản thành phố T kết luận: xe môtô biển số 78E1-009.93 trị giá 21.105.000 đồng; 01 ổ khóa điện xủa xe môtô hiệu Honda – Air Blade biển số 78C1-280.49 trị giá 1.550.000 đồng; 01 ổ khóa điện của xe môtô hiệu Honda – SH 125 biển số 78C1-271.000 trị giá 2.220.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên đã tuyên bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm các tội “Trộm cắp tài sản” và “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 178; Điểm b, s, h Khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự; phạt Nguyễn Tuấn A 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 02 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 26/6/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần trách nhiệm bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 03/11/2020, bị cáo Nguyễn Tuấn A kháng cáo với nội dung: Bị cáo không phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn A vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm a, b Khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự. Huỷ toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2020 tại khu vực sân phía Đông của tòa nhà V – Chi nhánh Phú Yên ở Phường 9, thành phố T, bị cáo Nguyễn Tuấn A đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe môtô Exciter biển kiểm soát 78E1-009.93 trị giá 21.105.000 đồng của anh Nguyễn Văn Gi nên cấp sơ thẩm truy tố xét xử bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Tuy nhiên, sau khi xem xét, nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:
[3.1] Về việc định tội danh: Hành vi của bị cáo phá ổ khóa xe môtô hiệu Honda – Air Blade biển số 78C1-280.49 trị giá ổ khóa 1.550.000 đồng và xe môtô hiệu Honda – SH 125 biển số 78C1-271.000 trị giá ổ khóa 2.220.000 đồng với tổng tài sản bị hư hỏng là 3.770.000đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Tuấn A gây hư hỏng các ổ khóa xe là một chuỗi hành động với mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản của người bị hại, không nhằm làm hư hỏng tài sản người khác. Hành vi của bị cáo có dấu hiệu phạm tội “trộm cắp tài sản”, nhưng quá trình điều tra, truy tố, xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ chưa toàn diện, đầy đủ dẫn đến việc xét xử bị cáo Nguyễn Tuấn A về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản người khác” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp.
[3.2] Mặt khác, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thể hiện: Ngày 26/6/2020, K ghẻ (Thuê trọ ở chung cư L, thành phố N, tỉnh K) điều khiển xe ôtô loại 04 chỗ ngồi chở B (Tên Triệu V thuê trọ ở gần chợ V, xã V, thành phố N), “Nam ráp” (Thuê trọ sau nhà thờ P ở xã V, thành phố N), Tuấn A từ thành phố N, tỉnh K đến thành phố T để trộm xe mô tô. Khi đi ngang qua hông tòa nhà V ở Phường 9, thành phố T thì B nhìn thấy bên trong có dựng nhiều xe mô tô, không người trông coi nên nói K dừng xe. Lúc này, B đi bộ vào bên trong dùng đoản phá khóa xe môtô, phá đến xe thứ 3 thì lấy được xe loại Exciter, B điều khiển xe lấy trộm được chở Tuấn A đi theo đường Hùng Vương ra Quốc lộ 1A thì giao xe cho Tuấn Achạy về thành phố N, việc làm hư hỏng các ổ khóa xe là do B làm. Đây là tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm chưa được điều tra làm rõ.
[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, nhằm để tránh bỏ lọt tội phạm và xác định lại tội danh đối với bị cáo cho phù hợp, Hội đồng xét xử thấy: Việc Kiểm sát viên đề nghị Huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên để điều tra lại là có căn cứ nên chấp nhận.
[5] Do huỷ toàn bộ bản án 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên nên kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Bị cáo Nguyễn Tuấn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điểm a, b, Khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Huỷ toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 66/2020/HS-ST ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A để điều tra lại.
Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Phú Yên giải quyết thuộc thẩm quyền.
Do huỷ toàn bộ bản án đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A, nên kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tuấn A không xem xét.
Bị cáo Nguyễn Tuấn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2021/HS-PT ngày 02/03/2021 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản và trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 13/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về