Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 79/2021/TLST- HNGĐ, ngày 09 tháng 6 năm 2021, về: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lang Thị T, sinh năm 1996 (vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Anh Đặng Công N, sinh năm 1991 (vắng mặt - có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ly hôn đề ngày 20/5/2021 và quá trình giải quyết vụ án, chị Lang Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N kết hôn ngày 12/9/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Quá trình chung sống chị T và anh N xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau, vợ chồng luôn nghi ngờ không tin tưởng nhau, cuộc sống hôn nhân rất căng thẳng nên chị T và anh N không còn chung sống từ tháng 02 năm 2020 đến nay. Hiện nay mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được, không thể kéo dài, chị T giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Đặng Công N.

- Về con chung: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N có 01 con chung là Đặng Thị Ngọc H, sinh ngày 23/10/2016. Chị T đồng ý giao con Đặng Thị Ngọc H cho anh N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lang Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án anh Đặng Công N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N kết hôn ngày 12/9/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn do không cùng quan điểm sống, không có sự tin tưởng, yêu thương chăm sóc nhau, sau đó chị T bỏ đi làm công nhân từ năm 2019 cho đến nay. Anh N thấy những mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng nên đồng ý ly hôn chị T.

- Về con chung: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N có 01 con chung là Đặng Thị Ngọc H, sinh ngày 23/10/2016, hiện con đang sống cùng anh N. Anh N có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành. Anh N không yêu cầu chị T cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Anh Đặng Công N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, HĐXX và Người tham gia tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án; tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ các trình tự thủ tục quy định; người tham gia tố tụng chị Lang Thị T và anh Đặng Công N chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Chấp nhận chị Lang Thị T được ly hôn anh Đặng Công N. Về con chung: Giao con chung là Đặng Thị Ngọc H, sinh ngày 23/10/2016 cho anh Đặng Công N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh N không yêu cầu chị T cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, xác định không có nợ chung nên không đề cập giải quyết.

Về án phí: Buộc chị Lang Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Lang Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, giải quyết về con chung. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Bị đơn anh Đặng Công N có nơi cư trú tại thôn T, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyên Krông Nô theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N kết hôn ngày 12/9/2016, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã, huyện K, tỉnh Đăk Nông, việc kết hôn của anh chị trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đúng theo Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Lang Thị T. Xét thấy, sau khi kết hôn vợ chồng chị T và anh N xảy ra nhiều mâu thuẫn do không hợp nhau, không cùng quan điểm sống, chị T và anh N đều thừa nhận vợ chồng đã không chung sống với nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay. Quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương từ cả hai phía vợ, chồng; dựa trên sự bình đẳng, tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau. Chị T không còn tình cảm với anh N, vì vậy không đảm bảo được việc quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, chia sẽ với nhau những công việc gia đình và cùng nhau nuôi con chung trưởng thành. Hiện nay quan hệ hôn nhân không có khả năng hàn gắn, tình cảm yêu thương dành cho nhau không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Theo nội dung biên bản xác minh tại nơi chị T và anh N sinh sống thì chính quyền không nắm được vợ chồng chị T và anh N có mâu thuẫn hay không.

Tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình quy định về tình nghĩa vợ chồng:

“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Tại điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình quy định:

“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Như vậy, xét yêu cầu khởi kiện của chị T và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đối với nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của chị Lang Thị T là có cơ sở nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N có 01 con chung là Đặng Thị Ngọc H, sinh ngày 23/10/2016. Anh N có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con đến tuổi trưởng thành. Anh N không yêu cầu chị T cấp dưỡng cho con.

Chị T đồng ý giao con Đặng Thị Ngọc H cho anh N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Từ thời điểm vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2020 cho đến nay anh N là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ áp dụng Điều 58; 81; 82; 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con chung là Đặng Thị Ngọc H cho anh N trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Chị T, anh N thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn theo các điều 81, 82, 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chị Lang Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 235; Điều 266; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 19, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lang Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lang Thị T được ly hôn anh Đặng Công N.

2. Về con chung: Giao con chung là Đặng Thị Ngọc H, sinh ngày 23/10/2016 cho anh Đặng Công N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Anh Đặng Công N không yêu cầu chị Lang Thị T cấp dưỡng cho con.

Sau khi ly hôn anh Đặng Công N và chị Lang Thị T có các quyền, nghĩa vụ theo các điều 81, 82, 83, 84, 116 của Luật hôn nhân và gia đình như sau:

- Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định tại khoản 1 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn theo quy định tại Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lang Thị T và anh Đặng Công N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lang Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0004177 ngày 31/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Nô.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-ST ngày 15/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về