Bản án 13/2021/HNGĐ-PT ngày 29/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 13/2021/HNGĐ-PT NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN 

Trong các ngày 25 và 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2020/TLPT- HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 139/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 559/2020/QĐ-PT ngày 16 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Anh K, sinh năm 1983 (có mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã S, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Võ Trọng K1 - Luật sư Chi nhánh Văn phòng luật sư Võ Trọng K1 thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị đơn: Chị Quách Thị Tuyết V, sinh năm 1982 (có mặt);

Địa chỉ: Đường L, Phường N, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

- Người kháng cáo: Bị đơn - Chị Quách Thị Tuyết V.

* Theo án sơ thẩm:

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn – anh Nguyễn Anh K trình bày:

Anh và chị Quách Thị Tuyết V cưới nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn nên anh về địa chỉ: Ấp T, xã S, huyện C, tỉnh Tiền Giang để sống chung với cha mẹ anh, còn chị V thì sống chung với cha mẹ vợ cùng con gái.

Ngày 22/8/2019, anh K có nộp đơn ly hôn nhưng bị Tòa án tuyên xử không chấp yêu cầu khởi kiện.

Ngày 26/11/2019, anh làm đơn kháng cáo Bản án số 212/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố M. Tuy nhiên, trong quá trình chờ Tòa án phúc thẩm giải quyết thì anh rút lại yêu cầu khởi kiện để vợ chồng có thời gian suy nghĩ.

Nhưng từ khi rút đơn về đến nay vợ chồng vẫn không hàn gắn được, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị V.

Về con chung: Có 01 con chung là Nguyễn Hạnh N, sinh ngày 10/02/2013. Khi ly hôn anh đồng ý giao con chung cho chị V chăm sóc, nuôi dưỡng, mỗi tháng anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi và lao động được.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn – chị Quách Thị Tuyết V trình bày:

Chị và anh Nguyễn Anh K cưới nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018. Đầu năm 2019 anh K có ý muốn ly hôn để sống chung với người khác nên đến ngày 22/8/2019 anh K đã tự nộp đơn ly hôn, nhưng bị Tòa án nhân dân thành phố M bác đơn khởi kiện. Sau đó anh K kháng cáo, trong thời gian Tòa phúc thẩm giải quyết, anh K động viên chị rút đơn để vợ chồng có thời gian suy nghĩ.

Hiện nay chị vẫn còn yêu thương chồng, muốn gia đình đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con cái. Do đó, chị không đồng ý ly hôn với anh K.

* Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 139/2020/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang đã xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Anh K.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Anh K được ly hôn với chị Quách Thị Tuyết V;

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hạnh N, sinh ngày 10/02/2013 cho chị Quách Thị Tuyết V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con số tiền 5.000.000 đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Nguyễn Hạnh N tròn 18 tuổi lao động được.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền thăm nom, chăm sóc con sau khi ly hôn, quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con và quyền kháng cáo của các đương sự.

* Ngày 13/10/2020, bị đơn – chị Quách Thị Tuyết V có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Anh Nguyễn Anh K giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Chị Quách Thị Tuyết V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tranh luận cho rằng mâu thuẫn giữa anh K và chị V kéo dài từ năm 2016 đến nay nhưng không giải quyết được, tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, thời gian sống ly thân đã lâu, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị V không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn tình cảm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về nội dung kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Quách Thị Tuyết V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Anh K là đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật “Xin ly hôn”; mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung kháng cáo, xét thấy:

Anh Nguyễn Anh K và chị Quách Thị Tuyết V tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 07/11/2008. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm và không tin tưởng lẫn nhau trong các mối quan hệ với đồng nghiệp khác giới.

Năm 2019, anh K nộp đơn xin ly hôn, được Tòa án nhân dân thành phố M thụ lý, giải quyết. Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 212/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố M đã xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Anh K.

Ngày 26/11/2019, anh K có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 06/5/2020, anh K tự nguyện rút đơn khởi kiện, rút đơn kháng cáo với lý do để vợ chồng có thêm thời gian suy nghĩ. Chị V cũng đồng ý với việc rút đơn của anh K. Do đó, Tòa án nhân dân Tỉnh Tiền Giang ra Quyết định số 21/2020/QĐ-PT ngày 06 tháng 5 năm 2020 hủy Bản án sơ thẩm số 212/2019/HN-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố M và đình chỉ giải quyết vụ án.

Ngày 26/6/2020, anh K tiếp tục nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị V và yêu cầu của anh K được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận.

Sau khi xét xử sơ thẩm, chị V có đơn kháng cáo không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của anh K với lý do: Ngày 06/5/2020 anh K rút đơn khởi kiện, rút đơn kháng cáo để vợ chồng có thời gian suy nghĩ xem xét hàn gắn hạnh phúc gia đình, nhưng chỉ hơn một tháng sau anh K đã tiếp tục nộp đơn xin ly hôn và tiếp tục quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Anh K tự tạo chứng cứ mâu thuẫn gia đình để được ly hôn với chị V nhằm mục đích được chung sống như vợ chồng với người phụ nữ mà anh K đang lén lút quan hệ.

Để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo, chị V có cung cấp một số hình ảnh, tin nhắn giữa anh K với chị V và đồng nghiệp của anh K, thể hiện việc anh K ngoại tình với đồng nghiệp nữ nhưng chị V vẫn tha thứ. Ngoài ra, chị V còn cung cấp một số hình ảnh vợ chồng, con cái đi du lịch cùng nhau vào năm 2018 để chứng minh giữa chị và anh K không có mâu thuẫn gì lớn và vẫn đang chung sống hạnh phúc, còn việc anh K có tình cảm với người phụ nữ khác chỉ là “say nắng” nhất thời. Chị V tha thiết mong muốn vợ chồng hàn gắn vì còn thương yêu anh K và không muốn con chung của anh chị sống thiếu tình cảm của cha hoặc mẹ.

Tại phiên tòa, anh K trình bày mâu thuẫn giữa anh và chị V xảy ra từ năm 2016, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, chị V có nhắn tin qua lại với đồng nghiệp nam trên mức bình thường, vợ chồng không tin tưởng lẫn nhau. Mặc dù cả hai đã cố gắng tìm biện pháp hàn gắn nhưng không đạt kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay, thời gian ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nên anh cương quyết xin được ly hôn với chị V.

Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa anh K, chị V là có thật và đã trở nên trầm trọng không có khả năng hàn gắn, thời gian ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị V kháng cáo không đồng ý ly hôn với anh K nhưng không đưa ra được giải pháp nào để giải quyết mâu thuẫn. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị V, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3]. Xét đề nghị của Luật sư và đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với nhận định nêu trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về án phí: Anh Nguyễn Anh K phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Do yêu cầu kháng cáo của chị V không được Hội đồng xét xử chấp nhận nên chị V phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, các điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị Quách Thị Tuyết V.

Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 139/2020/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Anh K.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Anh K được ly hôn với chị Quách Thị Tuyết V;

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hạnh N, sinh ngày 10/02/2013 cho chị Quách Thị Tuyết V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Anh K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền 5.000.000 đồng/tháng (năm triệu đồng/tháng). Bắt đầu thực hiện kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Nguyễn Hạnh N tròn 18 tuổi, lao động được.

2/- Về án phí: Anh Nguyễn Anh K phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung, tổng cộng 600.000 đồng. Anh K đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001670 ngày 29/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố M, tỉnh Tiền Giang, nên còn phải nộp tiếp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).

Chị Quách Thị Tuyết V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002167 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố M, tỉnh Tiền Giang, xem như đã nộp xong án phí.

3/- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án tuyên vào lúc 09 giờ 20 phút ngày 29/01/2021, có mặt anh K và chị V.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/HNGĐ-PT ngày 29/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn 

Số hiệu:13/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về