Bản án 13/2021/DS-ST ngày 16/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN YÊN, TỈNH BẮC GIANG

 BẢN ÁN 13/2021/DS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

 Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang tiến hành xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 10/2021/TLST-DS ngày 29/01/2021 về việc “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐST-DS ngày 14 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 51/2021/QĐST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự.

* Nguyên đơn: Bà Tạ Thị Ng, sinh năm 1948 (có mặt).

* Bị đơn:  anh Giáp Văn H, sinh năm 1973 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn B, xã Song V, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Vũ Thị Đ, sinh năm 1976 (vắng mặt) - Ông Lưu Tú Tr, sinh năm 1949 (có mặt) Đều cư trú: thôn B, xã Song V, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ sơ vụ án nguyên đơn là Bà Tạ Thị Ng trình bày:

Bà với  anh Giáp Văn H ở cùng thôn, ngày 23/3/2016 bà có cho  anh H vay số tiền 32.000.000 đồng, khi vay có lập giấy vay tiền viết trong quyển sổ nhỏ, đề ngày 23/3/2016, phần nội dung “cháu Hải còn nợ bà Ng Chữ số tiền là 32.000.000 đồng” do chính tay  anh H là người viết, tại nhà  anh H, mục đích vay là để làm ăn kinh tế, các bên có thỏa thuận miệng lãi suất là 0,8%/tháng nhưng không ghi vào trong giấy vay. Tại thời điểm năm 2016 thì vợ chồng  anh H đang ở cùng nhau nhưng chị Đ thường vắng nhà nên mọi giao dịch chỉ có một mình  anh H viết giấy vay trong số của bà và nhận tiền còn chị Đ không viết giấy và không nhận tiền. Sau khi vay tiền, đến ngày 24/12/2016  anh H có trả bà 2.340.000 đồng vào tiền lãi, từ sau đó đến nay  anh H không trả lần nào tiền lãi nữa. Bà đã đòi nhiều lần nhưng  anh H khất nợ. Đến nay bà yêu cầu  anh Giáp Văn H có trách nhiệm trả bà số tiền gốc là 32.000.000 đồng, không yêu cầu trả tiền lãi. Tại phiên tòa bà Ng có mặt và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 22/3/2021, bị đơn là  anh Giáp Văn H trình bày như sau: Ngày 23/3/2016  anh có vay của bà Ng số tiền 32.000.000 đồng,  anh thừa nhận phần nội dung “cháu Hải còn nợ bà Ng Chữ số tiền là 32.000.000 đồng” do chính tay  anh là người viết, mục đích vay là để cho chị Đ sử dụng, khi vay tiền thì chị Đ không có mặt, không viết vào giấy vay tiền. Tại quyết định thuận tình ly hôn số 86/2019/QĐST – HNGĐ ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên đã giải quyết cho  anh Giáp Văn Hai và Chị Vũ Thị Đ được ly hôn. Nên nay  anh xác định trách nhiệm trả nợ là một mình  anh.  anh thừa nhận có vay của bà Ng số tiền 32.000.000 đồng và đồng ý trả bà Ng số tiền 32.000.000 đồng, nhưng hiện nay  anh không có tiền nên  anh xin trả nợ dần.

- Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Chị Vũ Thị Đ trình bày:

Vào thời điểm vào năm 2016 vợ chồng chị đang sống ly thân không ai quan tâm đến nhau, trong thời gian này chị thường xuyên đi làm ăn xa nhà nên giữa chị và  anh H độc lập về kinh tế gia đình từ đó đến khi ly hôn. Do đó  anh H có vay tiền của bà Ng hay không, mục đích vay để làm gì chị không biết,  anh H không nói gì với chị về khoản vay này cho đến khi bà Ng có đơn khởi kiện  anh H và chị thì chị mới biết. Chị xác định phần nội dung chữ viết: “cháu Hải còn nợ bà Ng Chữ số tiền là 32.000.000đồng” trong mảnh giấy nhỏ mà chị được xem thì chị không biết chữ viết của ai, khi lập văn bản giấy tờ chị không có mặt, không nhận số tiền, không sử dụng số tiền nào từ bà Ng, Trữ vào việc phục vụ nhu cầu thiết yếu cầu gia đình chị. Tại quyết định thuận tình ly hôn số 86/2019/QĐST – HNGĐ ngày 25/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tân Yên đã giải quyết cho chị và  anh Giáp Văn Hai ly hôn. Nay bà Ng có đơn khởi kiện yêu cầu  anh H trả số tiền 32.000.000 đồng, chị xác định nếu  anh H có vay bà Ng thì một mình  anh H phải có trách nhiệm trả chứ chị không vay tiền nên chị không có trách nhiệm trả.

Tại bản tự khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Ông Lưu Tú Tr trình bày:

Ông là chồng Bà Tạ Thị Ng, vào ngày 23/3/2016 bà Ng có cho  anh Giáp Văn H vay số tiền 32.000.000 đồng, đây là tài sản riêng của bà Ng nên do bà Ng quyết định việc đòi nợ, ông không có ý kiến gì.

- Đại diện VKSND huyện Tân Yên phát biểu ý kiến:

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Yên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đảm bảo theo quy định.

Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng. Buộc  anh H trả bà Ng số tiền 32.000.000 đồng.  anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào ý kiến đề nghị của các đương sự. Căn cứ vào kết quả thảo luận nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Ng khởi kiện  anh H có nơi cư trú tại thôn Bùi, xã Song Vân, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang để yêu cầu trả số tiền đã cho vay. Tòa án nhân dân huyện Tân Yên đã thụ lý giải vụ án tr anh chấp hợp đồng vay tài sản theo thủ tục tố tụng dân sự là đúng pháp luật, đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành nên đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định.

Tại phiên toà,  anh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đối với chị Đ đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên HĐXX tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu đòi tiền của nguyên đơn:

- Về tiền gốc: Căn cứ các tài liệu chứng cứ phù hợp với nội dung giấy biên nhận vay tiền ngày 23/3/2016 được lập giữa Bà Tạ Thị Ng và  anh Giáp Văn H. HĐXX nhận định, ngày 23/3/2016,  anh Giáp Văn H vay của Bà Tạ Thị Ng số tiền 32.000.000 đồng, khi vay có lập giấy vay tiền viết tại mảnh giấy nhỏ trong quyển sổ nhỏ, đề ngày 23/3/2016 có phần nội dung “cháu Hải còn nợ bà Ng Chữ số tiền là 32.000.000 đồng” do chính tay  anh H là người viết, tại nhà  anh H, mục đích vay là để làm ăn kinh tế, các bên có thỏa thuận miệng lãi suất là 0,8%/tháng nhưng không ghi vào trong giấy vay, không ghi kỳ hạn trả. Các bên lập giấy vay tiền do  anh Giáp Văn H viết, bà Ng là người đưa tiền cho  anh H nhận tại nhà  anh H. Sau khi vay đến ngày 24/12/2016  anh H có trả cho bà Ng số tiền 2.340.000 đồng vào tiền lãi được ghi tại mặt sau của cùng 01 mảnh giấy vay tiền. Từ sau đó  anh H chưa trả tiền gốc và tiền lãi cho bà Ng là vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Nay bà Ng khởi kiện yêu cầu Toà án buộc  anh H phải trả số tiền gốc 32.000.000 đồng là có căn cứ.

- Về tiền lãi: Tại đơn khởi kiện Bà Tạ Thị Ng có yêu cầu  anh Giáp Văn H và Chị Vũ Thị Đ trả số tiền gốc là 32.000.000 đồng và tiền lãi suất, nhưng tại bản tự khai ngày 29/01/2021 và biên bản ghi lời khai ngày 08/4/2021 bà Ng tự nguyện xin rút yêu cầu về tiền lãi suất và bà chỉ yêu  anh Giáp Văn H trả số tiền nợ gốc là 32.000.000 đồng, không yêu cầu trả tiền lãi nên HĐXX không xem xét về số tiền lãi suất.

- Về nghĩa vụ trả nợ: Theo sự thừa nhận của vợ chồng bà Ng, ông Tr thì số tiền 32.000.000 đồng là tiền tài sản riêng của bà Ng cho  anh Giáp Văn H vay tiền. Tại đơn khởi kiện này 05/01/2021 Bà Tạ Thị Ng có yêu cầu  anh Giáp Văn H và Chị Vũ Thị Đ trả số tiền nợ gốc là 32.000.000 đồng và tiền lãi suất, nhưng tại bản tự khai ngày 29/01/2021 và biên bản ghi lời khai ngày 08/4/2021 bà Ng tự nguyện xin rút yêu cầu về tiền lãi suất và chỉ yêu cầu một mình  anh Giáp Văn H trả số tiền nợ gốc là 32.000.000 đồng, không yêu cầu Chị Vũ Thị Đ. HĐXX thấy việc rút yêu cầu về trách nhiệm nghĩa vụ liên đới đối với chị Đ trong vụ án là tự nguyện. Nay, bà Ng chỉ yêu cầu  anh H phải trả nợ,  anh H thừa nhận có vay của bà Ng số tiền 32.000.000 đồng,  anh xác định trách nhiệm trả nợ là một mình  anh nên HĐXX buộc  anh Giáp Văn H phải trả cho bà Ng số tiền 32.000.000đồng, không có ai có trách nhiệm liên đới với  anh H.

[3] Về lãi suất phát sinh do chậm trả tiền: Do hai bên đương sự không thỏa thuận được mức lãi suất chậm trả tiền nên HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự để ấn định mức lãi suất chậm trả tiền.

[4] Về án phí: Yêu cầu của bà Ng được chấp nhận nên  anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271;khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466; khoản 2 Điều 468; khoản 2 Điều 469 của Bộ luật dân sự;Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Tạ Thị Ng đối với  anh Giáp Văn H.

Buộc  anh Giáp Văn H phải trả cho Bà Tạ Thị Ng số tiền 32.000.000 đồng.(Ba mươi hai triệu đồng chăn).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí:  anh Giáp Văn H phải chịu 1.600.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cường chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

421
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 13/2021/DS-ST ngày 16/06/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:13/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về