Bản án 13/2021/DS-PT ngày 28/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và nợ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 13/2021/DS-PT NGÀY 28/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ NỢ HỤI

Ngày 28 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 223/2020/TLPT-DS ngày 28 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và nợ hụi.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 113/2020/DS-ST ngày 19/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 08/2021/QĐ-PT ngày 12 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1965; địa chỉ: khu phố Xà Ngách, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

- Bị đơn: Bà Danh Thị Kim P, sinh năm 1973; địa chỉ: khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: NLQ1, sinh năm 1977; địa chỉ: ấp H, xã T, thành phố T, tỉnh Kiên Giang (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bà Danh Thị Kim P – bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ng u y ê n đ ơ n b à N g u y ễ n T h ị T trình bày:

Bà có tổ chức 01 dây hụi tuần, bắt đầu khui hụi là ngày 18/02/2018 âm lịch (hụi 10 ngày khui 01 lần, vào các ngày 08/18/28 hàng tháng âm lịch), có 66 phần chơi, mỗi lần đóng 2.000.000 đồng, hụi mãn vào ngày 08/12/2019 âm lịch. Bà Danh Thị Kim P có tham gia 01 đầu hụi, bà P đóng được một lần, đến lần thứ hai (ngày 28/02/2018 âm lịch) bà P hốt ½ đầu hụi (bà P bỏ hụi 600.000 đồng tiền hoa hồng, có giấy giao tiền hụi ngày 28/02/2018 âm lịch kèm theo), nên bà giao tiền ½ đầu hụi cho bà P là 45.200.000 đồng. Trong ngày 28/02/2018 âm lịch, trước khi đến nhà bà P thì bà có đến tiệm máy vi tính nhờ đánh giùm phiếu giao hụi này, tuy nhiên người đánh máy vi tính tên là S (bà không biết họ và chữ lót, trong trung tâm chợ Ba Hòn thuộc khu phố B, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang) lại đánh nhằm tên bà Danh Thị Kim P thành bà Nguyễn Thị P, khi đó bà cũng biết họ và chữ lót của bà P là gì nên bà chỉ nói người nhận hụi tên là P thì bà có đến tiệm máy vi tính nên người này đánh tên là Nguyễn Thị P dưới chữ người nhận hụi. Thật sự sau khi đánh máy xong thì mỗi buổi sáng cùng ngày, thì bà có đem hụi đến giao cho bà P, trước khi nhận tiền hụi bà P có đọc kỹ phiếu giao hụi nên bà P mới đồng ý ký tên và bà giao số tiền 45.200.000 đồng cho bà P. Khi đọc tờ khui hụi này thì bà P cũng không có ý kiến gì về việc tôi ghi sai họ và chữ lót của bà Danh Thị Kim P thành Nguyễn Thị P, mà bà P đồng ý nhận tiền hụi và ký tên vào phiếu giao hụi.

Đối với ½ đầu hụi còn lại: Bà P đóng cho bà đến lần thứ 9, lần thứ 10 (ngày 18/5/2018 âm lịch) bà cho bà P hốt ½ đầu hụi còn lại (bỏ hụi 600.000 đồng, hốt ½ đầu hụi 700.000 đồng x 56 đầu hụi sống = 39.200.000 đồng + 18.000.000 đồng của 09 đầu sống, nhưng thật sự chỉ có ½ của đầu sống số tiền 9.000.000 đồng nên trong giấy giao tiền hụi 18/5/2018 âm lịch ghi tổng số tiền là 48.200.000 đồng là chính xác là – 600.000 đồng tiền hoa hồng), nên bà giao cho bà P số tiền 47.600.000 đồng.

Trong ngày 18/5/2018 âm lịch, trước khi đến nhà bà P thì bà có viết sẵn vào các phần dấu chấm về số phần hụi còn sống, phần hụi đã chết, tổng số tiền giao hụi, trừ thảo, tiền nhận hụi. Sau đó, trong cùng ngày bà có đem tiền và phiếu giao hụi này nhà bà P, tại đây bà P có đọc phiếu giao hụi này rất kỹ, nên mới đồng ý ký tên vào phần người nhận hụi và ghi họ tên chính xác của mình và nhận tiền hụi. Từ lần thứ 11 chở đi, bà P có đóng nhưng không đầy đủ, tính đến hôm nay đây hụi đã mãn mà bà P còn nợ bà số tiền là 33.000.000 đồng.

Đối với NLQ1 như bà P trình bày có tham gia chơi hụi của bà là không đúng, vì bà chỉ cho bà P tham gia chơi hụi, khi chơi hụi thì bà P không hề đề cặp đến cho NLQ1, cũng không có việc bà thồi tiền hụi lại cho NLQ1 như bà P trình bày. Thật sự bà P chỉ tham gia 01 đầu hụi, đã hốt và nhận tiền của bà. Bà có ghi vào cuốn sổ việc bà P đóng tiền hụi cho bà, sau đó bà trừ dần còn lại số tiền 33.000.000 đồng. Trong quá trình bà P đóng hụi thì bà chỉ nhận và ghi vào tờ giấy chứ không buộc bà P phải ký tên. Còn tờ giấy ghi bà P còn nợ lại tiền hụi của bà từ ngày 18/12/2018 âm lịch đến ngày 18/12/2019 âm lịch là kết thúc, mỗi tháng đến kỳ đóng hụi bà P không đóng hụi chết còn nợ số tiền 2.000.000 đồng, tính đến ngày 08/12/2019 âm lịch bà P còn nợ tổng số tiền hụi là 33.000.000 đồng nhưng trong tờ giấy bà cung cấp cho Tòa án cộng lại chỉ có 15 tháng với số tiền là 30.000.000 đồng là do bà ghi sót số tiền 3.000.000 đồng. Do các lần trước bà P giao tiền hụi chết chỉ giao mỗi tháng 1.000.000 đồng, bà P còn nợ 3 lần nên số tiền còn nợ là 3.000.000 đồng bà chưa ghi vào giấy. Vì vậy tổng số tiền hụi bà P còn nợ bà là 33.000.000 đồng.

Khi cho bà P vay tiền bà chỉ đưa qua tay chứ không làm giấy tờ gì cho bà P ký tên, sau đó bà về có ghi vào tờ giấy thể hiện về việc bà P có mượn bà 30.000.000 đồng thì bà P có trả góp 01 ngày 600.000 đồng, góp 20 ngày được 12.000.000 đồng, còn nợ lại 18.000.000 đồng nhưng khi góp tiền cũng không có làm biên nhận hay giấy tờ gì. Đối với số tiền 10.000.000 đồng bà P chưa trả cho bà. Vì vậy bà khởi kiện yêu cầu bà P trả cho bà số tiền hụi 33.000.000 đồng và tiền vay 28.000.000 đồng, tổng số tiền yêu cầu là 61.000.000 đồng.

Bị đơn bà Danh Thị Kim P trình bày: Bà có tham gia 02 phần hụi với bà T, hụi tuần, mỗi tuần đóng 2.000.000 đồng, trong đó 01 phần bà có tham gia giùm cho NLQ1, việc tham gia phần hụi này thì NLQ1 với bà T có gặp nhau một lần và bà có nói là bà sẽ chịu trách nhiệm với phần hụi bà tham gia hụi giùm bà NLQ1 và được bà T đồng ý, sau đó NLQ1 có đóng hụi được 01 lần là 2.000.000 đồng, NLQ1 đưa tiền cho bà đóng cho bà T. Phần hụi này bà thay mặt NLQ1 bỏ hụi để hốt giùm NLQ1, bỏ với giá 600.000 đồng nên đến lần thứ 2 thì được hốt hụi. Đến lần thứ 02 vào buổi sáng khoảng 09 giờ thì bà T đến nhà bà đưa cho bà một phiếu giao hụi kêu bà ký nói là đến chiều sẽ mang tiền hụi lại giao nên bà mới đồng ý ký, bà T giữ phiếu này. Đến 04 giờ chiều cùng ngày, bà T đến nhà bà nói không cho hốt, không giao tiền hụi mà chỉ đưa tiền hụi lại cho NLQ1, số tiền này bà đứng ra nhận và đã đưa lại cho NLQ1, bà nói lại sự việc bà T đưa lại tiền hụi và không cho NLQ1 chơi và NLQ1 cũng đồng ý không tham gia hụi của bà T và nhận lại số tiền 2.000.000 đồng.

Đối với phần hụi của bà trực tiếp tham gia chơi với bà T, bà T có hẹn đến tuần thứ 09 cho bà hốt hụi, bà bỏ hụi 600.000 đồng và được hốt hụi nhưng bà T không cho hốt mà hẹn qua tuần thứ 10 bà cũng đồng ý. Đến tuần thứ 10, vào lúc 09 giờ sáng bà T có đem 01 phiếu giao hụi đưa cho bà ký, bà T nói là về tính toán tiền hụi lại và đến chiều sẽ giao tiền hụi cho bà nên bà mới đồng ý ký và bà T giữ phiếu hụi này. Nhưng đến chiều bà T đến nhà bà không giao tiền hụi như đã hứa mà bà T nói là đưa tiền hụi lại cho bà 18.000.000 đồng và không có cho bà chơi hụi nữa, giữa hai bên có xảy ra cự cải. Vì vậy, bà T chỉ đưa lại tiền hụi cho bà 18.000.000 đồng chứ không có nhận số tiền hụi như bà T trình bày.

Đối với phiếu giao hụi thứ nhất ghi “HỤI (2.000.000đ) 10 NGÀY, KHUI NGÀY: 18/02/2018 AL” là tờ giấy đánh máy sẵn còn phần chỗ dấu chấm thì bà Nguyễn Thị T để trống, kêu bà ký vào phần người nhận hụi. Tuy nhiên, do tin tưởng bà T sau khi ký thì bà T sẽ giao tiền hụi cho bà nên bà mới đồng ý ký. Sau đó bà T không giao tiền hụi mà còn viết thêm vào các phần dấu chấm cho rằng bà có nhận tiền hụi của bà T là 47.600.000 đồng là không đúng.

Đối với phiếu giao hụi thứ hai ghi là “Phiếu giao hụi 10 ngày 1.000.000đ. Mỡ ngày 18/02/2018 âm lịch, tổng số 66 phần khui ngày 28/02”. Thì cũng giống như biên nhận lần đầu, bà T kêu bà ký vào phần người nhận hụi và hứa sẽ giao tiền hụi cho bà nên tin tưởng bà T nên bà mới đồng ý ký vào biên nhận này. Nhưng sau đó bà T lật lộng không giao tiền hụi cho bà, khi về bà T còn đánh sai tên của bà dưới chữ ký của bà là Nguyễn Thị P.

Về 02 tờ giấy ghi số tiền nợ hụi và tiền nợ vay do bà T cung cấp cho Tòa án bà cho rằng đây là 02 tờ giấy do bà T tự ghi, bà hoàn toàn không biết vì bà không có nợ tiền hụi và tiền vay của bà T. Bà hoàn toàn không có mượn bà T số tiền 40.000.000 đồng như bà T trình bày. Vì vậy bà T khởi kiện yêu cầu bà phải trả tiền hụi và tiền vay là 61.000.000 đồng thì bà không đồng ý.

Ngưi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan NLQ1 trình bày: Bà P nói là có vô giùm bà 01 chân hụi của bà T làm chủ hụi, loại hụi tuần 10 ngày xổ 01 lần, mỗi lần đóng 2.000.000 đồng. Bà đồng ý và có đóng được một lần với số tiền 2.000.000 đồng đến lần thứ hai thì được bà P thông báo lại là bà T không cho bà chơi mà đưa lại tiền hụi cho bà là 2.000.000 đồng, bà đồng ý nhận và không tham gia nữa. Thật ra khi tham gia hụi thì bà chỉ thông qua bà P chứ bà không trực tiếp gặp bà T và không có đóng tiền hụi cho bà T mà đưa tiền cho bà P đóng hụi giùm. Bà cũng không biết bà T có biết bà tham gia hụi bà T hay không mà tất cả những lần tham gia hụi, đóng tiền hụi và nhận tiền hụi lại thì chỉ thông qua bà P. Chỉ nghe bà P nói lại chứ bà chưa gặp bà T. Việc tham gia hụi này bà chỉ nghe bà P thông báo lại là bà T đồng ý cho bà tham gia 01 chân hụi và bà P sẽ chịu trách nhiệm tham gia giùm cho bà, còn bà chỉ có trách nhiệm đóng hụi cho bà P và bà P sẽ đóng lại cho bà T. Việc tham gia hụi giữa bà P với bà T thế nào bà không biết. Nay bà đã nhận lại tiền và không tham gia chơi hụi nữa nên bà nhận thấy không có liên quan đến việc tranh chấp tiền hụi giữa bà P với bà T. Vì vậy bà cũng không có yêu cầu hay tranh chấp gì với bà P và bà T.

Tại bản án sơ thẩm số 113/2020/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện K đã quyết định:

Buộc bị đơn bà Danh Thị Kim P phải trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền nợ hụi là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu bị đơn bà Danh Thị Kim P phải trả số tiền nợ hụi 3.000.000 đồng và số tiền nợ vay là 28.000.000 đồng. Tổng số tiền không được chấp nhận là 31.000.000 đồng (ba mươi mốt triệu đồng).

Án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả và báo quyền kháng cáo theo hạn luật định.

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 bị đơn bà Danh Thị Kim P kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại 02 tờ biên nhận, đối với 02 tờ biên nhận bà có ký tên nhưng chủ hụi không có giao tiền hụi cho bà, mà chủ hụi cũng không có ký vào biên nhận có giao dịch thì giấy hụi trên không có hiệu lực. Do đó, không đồng ý trả số tiền nợ hụi 30.000.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà P giữ nguyên đơn kháng cáo, không đồng ý trả tiền nợ hụi 30.000.000 đồng cho bà T. Bởi vì, 02 tờ biên nhận ghi là bà có tham gia chân hụi ngày 18/02/2018, mỗi chân hụi 1.000.000 đồng, 10 ngày khui một lần, chân hụi này bà không có tham gia, do bà T ghi khống. Đối với biên nhận số 02 ghi cho bà hốt hụi ½ chân là không đúng, bà tham gia hụi 01 phần là 2.000.000 đồng, có hốt thì hốt đủ 01 phần là 2.000.000 đồng, 10 ngày (chứ không ai hốt hụi ½ như bà T trình bày và có thể hiện số tiền trong biên nhận, thực tế bà T chỉ đưa lại cho bà là 9 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Đối với nguyên đơn bà T không đồng ý đơn kháng cáo của bị đơn, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị cấp phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo của bà Danh Thị Kim P, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan NLQ1 có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bà NLQ1 là đúng quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Bị đơn bà P yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại 02 tờ biên nhận, đối với 02 tờ biên nhận bà có ký tên nhưng bà T không có giao tiền hụi cho bà, mà bà T cũng không có ký vào biên nhận có giao dịch thì giấy hụi trên không có hiệu lực. Do đó, không đồng ý trả số tiền nợ hụi 30.000.000 đồng. Bởi vì, 02 tờ biên nhận ghi là bà có tham gia chân hụi ngày 18/02/2018, mỗi chân hụi 1.000.000 đồng, 10 ngày khui một lần, chân hụi này bà không có tham gia, do bà T ghi khống. Đối với biên nhận số 02 ghi cho bà hốt hụi ½ chân là không đúng, bà tham gia hụi 01 phần là 2.000.000 đồng, có hốt thì hốt đủ 01 phần là 2.000.000 đồng, 10 ngày (chứ không ai hốt hụi ½ như bà T trình bày và có thể hiện số tiền trong biên nhận, thực tế bà T chỉ đưa lại cho bà là 9 phần với số tiền là 18.000.000 đồng. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, đối với phiếu giao hụi 10 ngày 1.000.000 đồng mở ngày 18/02/2018 âm lịch (bút lục số 10) đã thể hiện rất rõ nội dung về giá hốt hụi, tổng số phần hụi, số phần hụi đã hốt, tổng số tiền được hốt là 45.800.000 đồng và trừ tiền hoa hồng là 600.000 đồng; tổng tiền thực nhận là 45.200.000 đồng và bà P cũng thừa nhận bà có ký vào biên nhận này. Đối với tờ giấy hụi ngày 18/5 (bút lục số 09) với nội dung chị P hốt ½ phần hụi và từ tiền hoa hồng thì tiền thực nhận của bà P là 47.600.000 đồng, biên nhận này bà P thừa nhận có ký vào biên nhận nhưng bà T không có đưa tiền hụi cho bà thực chất bà T chỉ đưa cho bà 9 lần hụi mà bà đã đóng là 18.000.000 đồng, phần trống không ghi nội dung gì bà T về tự ghi nội dung vào. Nhưng bà P lại khai nại là bà có ký vào hai giấy hụi trên nhưng thực chất bà không có nhận số tiền như trong giấy hụi của bà T, xét lời khai nại của bà không có chứng cứ để chứng minh lời trình bày của mình là có căn cứ. Bởi vì, bà P đã thừa nhận có ký vào hai tờ giấy hụi (bút lục số 09 và số 10), đồng thời bà T cho do không tin tưởng bà P nên chỉ cho bà P mỗi lần là ½ phần hụi và mỗi lần bà T giao tiền hụi cho bà P đều được bà P ký vào khi nhận tiền hụi là hai tờ giấy hụi mà bà P đã ký vào. Do đó, Hội đồng không có cơ sở chấp nhận lời khai nại của bà P.

[3] Từ những nhận định trên, xét thấy cấp sơ thẩm chấp nhận một phần đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T buộc bị đơn bà Danh Thị Kim P trả 30.000.000 đồng là có căn cứ đúng quy định pháp luật. Trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Danh Thị Kim P; chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Án phí phúc thẩm: Bị đơn bà Danh Thị Kim P không phải chịu án phí 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 357, 468, 471 của Bộ luật dân sự ; khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị đơn bà Danh Thị Kim P Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 113/200/DS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đối với bị đơn bà Danh Thị Kim P về tranh chấp nợ hụi.

2. Buộc bị đơn bà Danh Thị Kim P phải trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền nợ hụi là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi theo mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu bị đơn bà Danh Thị Kim P phải trả số tiền nợ hụi 3.000.000 đồng và số tiền nợ vay là 28.000.000 đồng. Tổng số tiền không được chấp nhận là 31.000.000 đồng (ba mươi mốt triệu đồng).

4. Về án phí:

Án phí sơ thẩm:

Buộc bị đơn bà Danh Thị Kim P phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Buộc nguyên đơn bà Nguyễn Thị T phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 1.550.000 đồng (một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp 1.525.000 đồng theo biên lai thu số 0000141 ngày 21/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Kiên Giang. Nên bà Nguyễn Thị T phải nộp thêm số tiền 25.000 đồng (hai mươi lăm nghìn đồng).

Án phí phúc thẩm:

Bị đơn bà Danh Thị Kim P phải chịu án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009062 ngày 30/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2021/DS-PT ngày 28/01/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và nợ hụi

Số hiệu:13/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về