TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 13/2021/DS-PT NGÀY 18/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỤI
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 131/2020/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 133/2020/DS-ST ngày 08/09/2020 của Toà án nhân dân thị xã L, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 199/2020/QĐ-PT ngày 25 tháng 11 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 91/2020/QĐ-PT ngày 24 tháng 12 năm 2020 và Thông báo dời phiên tòa số 01/TB-TA ngày 15 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị C Địa chỉ: Số 83A, khu vực T1, phường L, quận C1, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
- Bị đơn: Bà Huỳnh Thị T (có mặt) Địa chỉ: Ấp L1, xã L2, thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị H (có mặt) Địa chỉ: Ấp L1, xã L2, thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
- Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn bà Huỳnh Thị C trình bày: Vào năm 2017 bà có tham gia chơi hụi do bà Huỳnh Thị T làm chủ, cụ thể như sau:
- Dây hụi ngày 20/3/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/tháng, hụi có 24 phần, bà tham gia 02 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà đóng được 14 lần với số tiền 48.440.000 đồng x 02 phần = 96.880.000 đồng. Theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng 140.000.000 đồng.
- Dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/tháng, hụi có 22 phần, bà tham gia 01 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà đóng được 5 lần hụi sống với số tiền 18.050.000 đồng. Theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng 25.000.000 đồng.
- Dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi có 30 phần, bà tham gia 01 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà đóng được 06 lần với số tiền 8.160.000 đồng. Theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng 12.000.000 đồng.
Tổng số tiền bà đóng là 123.090.000 đồng. Tuy nhiên theo thỏa thuận chơi hụi thì bà được hưởng 177.000.000 đồng, bà T đã trả cho bà được 30.000.000 đồng, còn nợ lại 147.000.000 đồng. Nay bà C yêu cầu bà T trả cho bà số tiền 88.590.000 đồng.
Đối với giấy chuyển tiền ngày 04/6/2018 số tiền 50.000.000 đồng bà T chuyển cho bà là dây hụi mùa mãn vào đầu năm 2018 không liên quan đến dây hụi bà khởi kiện; Giấy chuyển tiền ngày 05/3/2019 số tiền 30.000.000 đồng bà T chuyển cho bà là dây hụi ngày 20/3/2017 âm lịch.
Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa bị đơn bà Huỳnh Thị T trình bày: Bà Huỳnh Thị C có tham gia các dây hụi do bà làm chủ, cụ thể như sau:
- Dây hụi ngày 20/3/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/ tháng, hụi có 27 phần, bà C tham gia 02 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà C đóng được 14 lần với số 96.880.000 đồng sau đó bà C ngưng đóng hụi, bà đã chuyển khoản cho bà C 30.000.000 đồng, bà H mẹ bà C nhận trực tiếp 25.000.000 đồng.
- Dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/tháng, hụi có 22 phần, bà C tham gia 01 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà C đóng được 05 lần số tiền 18.050.000 đồng, sau đó bà C ngưng đóng, số tiền này bà đã trả cho bà H là mẹ bà C nhận.
- Dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi có 30 phần, bà C tham gia 01 phần, trong sổ hụi ghi tên Mỹ L3, bà C đóng được 06 lần số tiền 8.160.000 đồng sau đó ngưng đóng, số tiền này bà đã trả cho bà H là mẹ bà C nhận.
Tổng số tiền bà C đóng thực tế là 123.090.000 đồng nhưng bà đã trả hết cho bà C cụ thể như sau. Lần 01 vào ngày 04/6/2018 chuyển 50.000.000 đồng, lần 2 vào ngày 05/3/2019 chuyển 30.000.000 đồng, ngày 30/10/2018 bà H mẹ bà C nhận 25.000.000 đồng, số tiền còn lại bà H nhận và có ký tên nhưng không ghi ngày tháng. Bà xác định không còn nợ bà C nên không đồng ý theo yêu cầu của bà C.
Tại văn bản ngày 11/6/2020 quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị H trình bày: Bà là mẹ của bà C, số tiền 25.000.000 đồng trong biên nhận đã ghi là đúng, bà đã nhận đủ 25.000.000 đồng, tuy nhiên bà không có ký tên vào biên nhận, nhưng đây là số tiền của dây hụi mùa không liên quan đến những dây hụi do bà C khởi kiện. Đối với danh sách số tiền nhận từng lần của các dây hụi do bà T cung cấp, bà không có nhận và cũng không có ký tên vào, bà không yêu cầu giám định chữ ký.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 133/2020/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân thị xã L, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị C.
Buộc bị đơn bà Huỳnh Thị T có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị C số tiền hụi còn nợ là 88.590.000 đồng (tám mươi tám triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng).
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chịu lãi suất chậm trả, các quyền, nghĩa vụ về việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/9/2020, bị đơn bà Nguyễn Thị T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, bà đã trả hết số tiền là 88.590.000 đồng cho bà C, nay bà không đồng ý trả tiền theo bản án sơ thẩm đã tuyên.
Tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày: bà có tham gia hụi do bà T làm chủ, cụ thể hụi mùa mở năm 2015, có 18 phần, 03 tháng khui hụi 01 lần, bà tham gia 01 phần, hiện dây hụi này đã mãn, bà đã đóng tới khi mãn hụi, dây hụi này bà không khởi kiện, bà cho rằng bà T có chuyển tiền vào tài khoản của bà 02 lần cụ thể: Lần 01 là trước ngày 18/4/2018 âm lịch bà nhận hụi Mùa do bà T giao là 50 triệu đồng, sau ngày này bà không nhận thêm khoản tiền nào, đến tháng 3/2019 bà nhận thêm 30 triệu đồng do bà T chuyển tiền là của các dây hụi tháng.
Bị đơn thừa nhận bà C có tham gia hụi do bà làm chủ trong đó có hụi Mùa mở tháng 8/2015 (al), hụi có 18 phần, bà C tham gia 01 phần, hụi 03 tháng khui một lần, hụi mãn vào tháng 10/2019 (al) bà C không khởi kiện bà dây hụi này, đối với 03 dây hụi tháng bà còn nợ bà C 123 triệu đồng lần lượt các dây hụi như cấp sơ thẩm đã làm rõ, bà có chuyển tiền cho bà C hai lần vào năm 2018 chuyển 50 triệu đồng và năm 2019 chuyển 30 triệu đồng là tiền bà chuyển trả cho những dây hụi tháng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm từ giai đoạn thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Huỳnh Thị T, sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Nguyên đơn bà Huỳnh Thị C khởi kiện yêu cầu bà Huỳnh Thị T trả cho bà số tiền 88.590.000 đồng mà bà đã đóng tiền hụi cho bà T. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi” là đúng quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 26; Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Hậu Giang thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Huỳnh Thị T có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem là hợp lệ.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bà T, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[3.1] Các bên đương sự thống nhất với nhau về số chân hụi, số tiền hụi đã đóng và số tiền chốt hụi, cụ thể là dây hụi ngày 20/3/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/tháng, hụi có 24 phần, bà C tham gia 02 phần, tổng số tiền đã đóng là 96.880.000 đồng; dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 5.000.000 đồng/tháng, hụi có 22 phần, bà C tham gia 01 phần, bà đóng được 5 lần hụi sống với số tiền 18.050.000 đồng và dây hụi ngày 10/11/2017 (âl) hụi 2.000.000 đồng/tháng, hụi có 30 phần, bà C tham gia 01 phần, bà đóng được 06 lần với số tiền 8.160.000 đồng. Tổng số tiền nợ hụi bà T và bà C thống nhất là 123.000.000 đồng, tuy nhiên bà C cho rằng bà có nhận 30 triệu đồng do bà T chuyển trả tiền vào năm 2019, bà T còn phải trả cho bà 93 triệu đồng, nhưng bà C chỉ yêu cầu bà T trả cho bà số tiền còn lại là 88.590.000 đồng đã trừ 30 triệu đồng theo giấy chuyển tiền ngày 05/3/2019, do vậy Hội đồng xét xử chỉ xét xử trong phạm vi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với số tiền là 88.590.000đồng.
[3.2] Hai bên nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất số tiền nợ hụi và tiền phải trả. Tuy nhiên, hai bên chỉ không thống nhất với giấy chuyển tiền ngày 04/6/2018 (bút lục 18) số tiền 50 triệu đồng, bị đơn thì cho rằng 50 triệu đồng là bà chuyển trả cho nguyên đơn tiền của 03 dây hụi tháng, nguyên đơn cho rằng 50 triệu đồng bà nhận của bị đơn là tiền bị đơn trả cho bà là dây hụi Mùa. Đối Cếu với thời gian các bên tham gia hụi và ý kiến trình bày của hai bên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy, đối với ý kiến của nguyên đơn cho rằng nhận 50 triệu đồng do bị đơn chuyển là của dây hụi Mùa được mở vào tháng 8/2015 có 18 phần, hụi 03 tháng khui một lần và bà đã đóng tiền đến khi mãn hụi, dây hụi Mùa đã mãn trước tháng 5/2018 âm lịch, đối Cếu với thời gian thì dây hụi Mùa sẽ mãn vào tháng 10 năm 2019 chứ không phải năm 2018 như nguyên đơn trình bày. Như vậy, dây hụi Mùa mãn vào năm 2019, thì không có căn cứ nào cho rằng vào ngày 04/6/2018 bị đơn chuyển trả cho nguyên đơn 50 triệu đồng là của dây hụi Mùa.
Tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày bà nhận được 50 triệu đồng do bà T chuyển trả tiền hụi Mùa vào trước ngày 18/4/2018 âm lịch, sau ngày này bà không nhận được khoản tiền nào nữa. Tuy nhiên, đối Cếu với chứng cứ do bị đơn cung cấp là giấy chuyển tiền 50 triệu đồng qua Ngân hàng Kiên Long của bị đơn là ngày 04/6/2018 tức ngày 21/04/2018 âm lịch, việc này phù hợp với thời gian ngừng hụi của nguyên đơn đối với các dây hụi tháng.
[3.3] Do vậy, có căn cứ cho rằng giấy chuyển tiền ngày 04/6/2018 số tiền 50 triệu đồng mà bị đơn chuyển trả cho nguyên đơn qua Ngân hàng Kiên Long là tiền của 03 dây hụi tháng, chứ không phải hụi Mùa như nguyên đơn trình bày. Nguyên đơn có quyền khởi kiện đòi tiền nợ hụi Mùa thành một vụ án khác, nếu thấy quyền lợi của mình chưa được đảm bảo.
Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của bà Huỳnh Thị T là có căn cứ chấp nhận một phần, chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 .
Căn cứ: Điều 357, 471 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường;
Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Huỳnh Thị T.
Sửa bản án sơ thẩm số 133/2020/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2020 của Toà án nhân dân thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị C.
2. Buộc bị đơn bà Huỳnh Thị T có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị C số tiền hụi còn nợ là 38.590.000đồng (Ba mươi tám triệu năm trăm chín mươi nghìn đồng).
3. Kể từ ngày bà Huỳnh Thị C có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án. Lãi suất chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bị đơn bà Huỳnh Thị T phải chịu là 1.929.500đồng (Một triệu chín trăm hai mươi chín nghìn năm trăm đồng).
Nguyên đơn bà Huỳnh Thị C phải chịu 2.500.000đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), chuyển 2.215.000 đồng (Hai triệu hai trăm mười lăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà C đã nộp theo biên lai thu số 0000271 ngày 11/02/2020 của C cục Thi hành án dân sự thị xã L thành án phí. Bà C còn phải nộp thêm 285.000đồng (Hai trăm tám mươi lăm nghìn đồng).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu, bà Huỳnh Thị T được nhận lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0005004 ngày 22/9/2020 tại C cục Thi hành án dân sự thị xã L, tỉnh Hậu Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án, ngày 18 tháng 01 năm 2021.
Bản án 13/2021/DS-PT ngày 18/01/2021 về tranh chấp hợp đồng hụi
Số hiệu: | 13/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về