Bản án 13/2020/HSST ngày 21/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG- THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 13/2020/HSST NGÀY 21/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 339/2019/HSST ngày 30/12/2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/QĐXX -ST ngày 02/01/2020, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoài N- Sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 147/180 phố B, phường Q, quận Đống Đa, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Hữu V; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Kim T; Có vợ là Đặng Kim Th- Sinh 1986; Có 02 con, con lớn sinh 2003, con nhỏ sinh 2008;

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 305/2017 ngày 28/9/2017 của TAND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù. Bản án hình sự phúc thầm số 15/2018/HSST ngày 16/01/2018, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản. Thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

(Chấp hành xong hình phạt tù cho hưởng án treo ngày 16/01/2019); Tiền sự: 01 tiền sự đã hết thời hiệu.

Bị tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 06/10/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Phạm Mạnh C- Sinh năm 1984; Giới tính: Nam; Hộ khẩu thường trú: Số 71, tổ 10b, phố B, phường Q, quận Đống Đa, Hà Nội; chỗ ở: 14/14 phố V, phường Đ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Phạm Văn X ( tên gọi khác: Phạm Mạnh X); Họ tên mẹ: Lương Thị L; Có vợ đã ly hôn là Phạm Thị H- Sinh 1981; Có 02 con, con lớn sinh 2006, con nhỏ sinh 2008;

Tiền án: Không; Tiền sự: 01 tiền sự đã hết thời hiệu.

Bị tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 06/10/2019. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị L- Sinh 2000; Trú tại: thôn T, xã B, huyện Ba Vì, Hà Nội;

2.Anh Lê Quang T1- Sinh 1998; Trú tại: Thôn L, xã L, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa;

(Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 26/9/2019, Nguyễn Hoài N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 28G1-16741, chở Phạm Mạnh C đến khu tập thể số 70 phố Võ Thị Sáu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, C và N phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 20V1-56298 của chị Nguyễn Thị L dựng trong khu tập thể, không có người trông coi. N dừng xe nói với C “ Mày đứng ở ngoài trông cho tao, để tao đi vào”. N đi đến gần chiếc xe máy, sử dụng bộ vam phá khóa để trong túi quần sau phá khóa điện, nổ máy xe máy và phóng xe ra ngoài đường. Đi được khoảng 10m thì bị tổ công tác Công an phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội bắt quả tang, đưa N và C về trụ sở giải quyết.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C khai nhận hành vi phạm tội nêu trên. Ngoài ra N, C còn khai nhận: Khoảng 09 giờ cùng ngày, N chuẩn bị 01 bộ vam phá khóa xe, đồng thời tháo biển kiểm soát 30L5-9500 của chiếc xe máy Honda Wave có số khung 063957, số máy 2564021 và lắp biển kiểm soát 28G1-167.41 vào xe. Sau đó N đi xe mô tô mang biển kiểm soát 28G1-167.41 đến đón Phạm Mạnh C tại khu vực Đội Cấn, Ba Đình để cùng nhau đi trộm cắp xe máy. C đưa cho N 01 chiếc áo và mũ bảo hiểm Grab mặc, để tránh bị nghi ngờ. Khoảng 12 giờ cùng ngày, N chở C đi đến khu vực cầu Vĩnh Tuy thì phát hiện 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển kiểm soát 98L1-263.56 của anh Lê Quang T1 dựng trước cửa nhà số 29, ngách 122/44 phố Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Phát hiện xe máy không có người trông coi, N dừng xe lại nói với C “ mày quay đầu xe đi”, còn N đi bộ đến gần chiếc xe máy, sử dụng vam phá khóa điện, nổ máy đi phía trước, C điều khiển xe máy biển kiểm soát 28G1-167.41 đi phía sau. Cả hai đi ra gầm cầu Trần Khát Chân- Kim Ngưu để đưa xe cho đối tượng tên B ( không rõ nhân thân, lai lịch) đem xe đi tiêu thụ.

Cơ quan Công an thu giữ của N, C: 01 bộ vam phá khóa xe máy gồm 01 tay công, 03 đầu vam, 01 khớp nối và 02 đầu lục giác; 01 áo khoác gió màu xanh đen, trên áo có ghi chữ Grab Bike; 01 mũ bảo hiển màu xanh có chữ Grab; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo biển kiểm soát 20V1-56298, số khung 0713110, số máy 733018; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh, đeo biển kiểm soát 28G1-167.41, số khung 063957, số máy 2564021; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6s màu hồng, số Imei: 355767076511398 của Phạm Mạnh C; 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS màu vàng, số Imei: 357207092768225 của Nguyễn Hoài N; 01 chiếc biển kiểm soát 30L5-9500 của Nguyễn Hoài N.

Tại kết luận định giá tài sản số 151/KL-HĐ ĐGTS ngày 13/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, đã kết luận:

- Tài sản thu hồi được: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đeo biển kiểm soát 20V1-56298, trị giá 16.000.000đ( Mười sáu triệu đồng);

- Tài sản chưa thu hồi được: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng đen bạc, biển kiểm soát 89L1-26356, trị giá 12.500.000đ( Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Tổng giá trị tài sản: 28.500.000đ( Hai mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng);

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Wave, biển kiểm soát 29V1-56298, quá trình điều tra xác minh chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị L. Xe máy không có trong dữ liệu vật chứng, số khung số máy nguyên thủy. Ngày 02/12/2019, cơ quan điều tra đã trả chị L chiếc xe máy trên. Chị L không yêu cầu về dân sự.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 30L5-9500, số khung 063957, số máy 2564021: kết quả giám định số khung, số máy nguyên thủy. Qua tra cứu, chủ đăng ký xe là Công ty TNHH TH, do ông Phạm Trọng N làm giám đốc. Tháng 9/2016, ông N bán chiếc xe máy cho anh Phạm Xuân C1. Cuối năm 2018, anh C1 cho N mượn xe để sử dụng. Anh không biết N sử dụng xe máy để đi trộm cắp tài sản. Ngày 02/12/2019, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy trên cho anh Phạm Xuân C1. Anh C1 không yêu cầu về dân sự.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển kiểm soát 89L1- 263.56, quá trình điều tra xác định được: tháng 12/2017, anh Lê Quang T1 mua xe máy và nhờ chị Nguyễn Thị L1( Sinh 1984; trú tại: Xã C, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên) đứng tên đăng ký. Ngày 26/9/2019, anh T1 để xe trước cửa nhà số 29, ngách 122/44 phố Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội thì bị mất trộm. Chiếc xe máy này, hiện chưa thu hồi được. Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C đã thỏa thuận với anh Lê Quang T1 bồi thường giá trị xe 07 triệu đồng. Anh T1 đồng ý và đã nhận số tiền bồi thường giá trị xe máy, anh không yêu cầu bồi thường dân sự.

Đối với đối tượng tên B là người nhận tiêu thụ chiếc xe máy của anh T1: hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, nên cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan đến đối tượng B để điều tra làm rõ sau.

Đối với 01 bộ vam phá khóa: N khai nhặt được trên đường từ lâu, không nhớ vị trí đã nhặt được.

Đối với biển kiểm soát 28G1-167.41 thu giữ của N: N khai nhặt được ở bãi rác ngã tư Đê La Thành. Quá trình điều tra xác định biển kiểm soát đăng ký tên chị Trần Thị T ( trú tại: xóm 8, xã L, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình). Tháng 6/2017, chị H đã bán xe máy cho người tên B ( không rõ lai lịch). Ngày 02/12/2019, Cơ quan điều tra đã tách biển kiểm soát để xác minh, xử lý sau.

Đối với tài sản thu giữ của Phạm Mạnh C: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6s màu hồng, C khai là tài sản cá nhân, C dùng điện thoại liên lạc với N để rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Chiếc áo khoác và mũ bảo hiểm Grab là của C trước đây chạy Grab giữ lại dùng.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone XS thu giữ của Nguyễn Hoài N: quá trình điều tra xác định là của chị Đặng Thị T ( vợ N). Chị T mua điện thoại vào ngày 08/9/2019, ngày 26/9/2019, chị T cho N mượn để xem phim. Chị không biết N dùng điện thoại để liên lạc với C đi trộm cắp tài sản. Ngày 02/12/2019, cơ quan điều tra đã trả chiếc điện thoại cho chị T.

Tại Bản cáo trạng số 04/CT/VKS-HBT ngày 23/12/2019, VKSND quận Hai Bà Trưng đã truy tố Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng căn cứ lời khai thừa nhận của các bị cáo tại phiên tòa, cũng như trong quá trình điều tra; Căn cứ lời khai của người bị hại, người làm chứng; Căn cứ Kết luận định giá tài sản, đã xác định các bị cáo phạm tội Trộm cắp tài sản. Sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s, b khoản 1 Điều 51, điểm g( phạm tội từ 02 lần trở lên), h( đối với Nguyễn Hoài N) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Xử phạt Nguyễn Hoài N từ 18 đến 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt Phạm Mạnh C từ 12 đến 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền các bị cáo;

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 tay công, 03 đầu vam, 01 khớp nối và 02 đầu lục giác; 01 áo khoác gió màu xanh đen, trên áo có ghi chữ Grab Bike; 01 mũ bảo hiển màu xanh có chữ Grab;

Tịch thu phát mại sung công 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6s màu hồng thu giữ của C.

Về dân sự: chị Nguyễn Thị L đã nhận lại tài sản; anh Lê Quang T1 đã nhận tiền bồi thường giá trị xe máy. Các bị hại đều không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C công nhận nội dung bản cáo trạng, lời luận tội của Viện kiểm sát là đúng hành vi các bị cáo thực hiện. Các Bị cáo xác nhận có tội, không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Các bị cáo đều xác nhận số tiền 07 triệu đồng bồi thường cho anh T1 là tiền cá nhân các bị cáo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Xét hành vi của các bị cáo: Căn cứ lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa; Căn cứ lời khai của bị hại, người làm chứng; Bản kết luận định giá trong tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử có cơ sở để kết luận: Trong ngày 26/9/2019, các bị cáo Nguyễn Hoài N, Phạm Mạnh C đã lén lút dùng vam phá khóa, phá khóa xe mô tô, chiếm đoạt các tài sản sau: 01 xe máy Honda Wave, biển kiểm soát 20V1-56298, có giá trị 16.000.000đ( Mười sáu triệu đồng) của chị Nguyễn Thị L, tại số 70 phố Võ Thị Sáu, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển kiểm soát 89L1-263.56 có giá trị 12.500.000đ ( Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng) của anh Lê Quang T1, tại địa chỉ 29, ngách 122/44 phố Vĩnh Tuy, phường Vĩnh Tuy, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của Nguyễn Hoài N, Phạm Mạnh C là nguy hiểm cho xã hội, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân, gây mất trật tự trị an xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xét thấy, trong môt ngày, các bị cáo liên tục thực hiện 02 vụ trộm cắp xe mô tô. Nhân thân Nguyễn Hoài N đã có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích. Vì vậy cần thiết phải xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm trộm cắp tài sản.

Về vai trò đồng phạm: Trong vụ án này, Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C đều thống nhất bàn bạc với nhau đi trộm cắp tài sản. N chuẩn bị vam phá khóa, là người trực tiếp trộm cắp xe máy. C chuẩn bị áo khoác, mũ Grab để ngụy trang và là người cảnh giới để N thực hiện hành vi trộm cắp. Vì vậy vai trò của các bị cáo ngang nhau.

Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng đánh giá vai trò của từng bị cáo, đề nghị xét xử các bị cáo với tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

nh phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các Bị cáo thực hiện hai lần trộm cắp tài sản, giá trị tài sản mỗi lần trộm cắp có giá trị trên 02 triệu đồng, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội hai lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nhân thân Nguyễn Hoài N đã có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”, quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Quá trình điều tra, các bị cáo đã bồi thường cho anh Lê Quang T1 giá trị xe máy không thu hồi được. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Biện pháp tư pháp: Bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.

Xử lý vật chứng: Đối với 01 tay công, 03 đầu vam, 01 khớp nối và 02 đầu lục giác; 01 áo khoác gió màu xanh đen, trên áo có ghi chữ Grab Bike; 01 mũ bảo hiển màu xanh có chữ Grab: đây là công cụ các bị cáo dùng để phạm tội. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone6s thu giữ của Phạm Mạnh C: quá trình điều tra xác định được N dùng điện thoại để rủ C đi trộm cắp. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước. Về án phí: các bị cáo, mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo, Bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h( đối với Nguyễn Hoài Nam) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Xử phạt Nguyễn Hoài N 13 (Mười ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án( được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 06/10/2019).

Xử phạt Phạm Mạnh C 10 (Mười) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án( được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 26/9/2019 đến ngày 06/10/2019).

nh phạt bổ sung: miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo.

Về dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự, nên không xem xét.

Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 tay công bằng kim loại màu trắng dài 15cm; 03 đầu vam bằng kim loại màu trắng dài 07cm; 01 khớp nối bằng kim loại màu trắng dài 05cm; 02 đầu lục giác bằng kim loại màu trắng; 01 áo khoác gió màu xanh đen, trên áo có ghi chữ Grab Bike; 01 mũ bảo hiển màu xanh có chữ Grab.

Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone6s màu hồng, số imei: 355767076511398.

(Các vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng, theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 15/10/2019).

Về án phí: các bị cáo Nguyễn Hoài N và Phạm Mạnh C, mỗi người phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HSST ngày 21/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:13/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về