TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 13/2020/HS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 331/2019/HS- ST ngày 05 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2019/QĐXX-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2019/HSST-QĐ ngày 7/10/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 159/2019/HSST-QĐ ngày 4/11/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 176/2019/HSST-QĐ ngày 2/12/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 178/2019/HSST-QĐ ngày 23/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo:
Lý Thú Đ - Sinh năm 1995 tại Khánh Hòa; giới tính: Nam
- Nơi thường trú: 1/12 T, phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không
- Trình độ học vấn: 5/12
- Nghề nghiệp: Lao động tự do
- Họ tên cha: Lý Ph - sinh năm 1968.
- Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Thu V - sinh năm 1969.
- Tiền án, tiền sự: không
- Bị can bị tạm giữ từ ngày 05/8/2019 đến ngày 08/8/2019 và bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/8/2019. Bị bắt tạm giam từ ngày 13/01/2020. Có mặt tại phiên tòa
* Bị hại: Cháu Nguyễn Đình T, sinh ngày 29/01/2003
Trú tại: số 705 đường 2/4, phường V, thành phố Nha Trang.
- Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Đình Th và bà Nguyễn Thị Chi L, là cha mẹ ruột của cháu T.
Cùng trú tại: số 705 đường 2/4, phường, thành phố Nha Trang.
Cháu Nguyễn Đình T, ông Nguyễn Đình Th và bà Nguyễn Thị Chi L vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Trần Tuấn H, sinh năm 1985
Trú tại: 5/2/4 MC, phường P, thành phố Nha Trang. Vắng mặt
* Người làm chứng:
Cháu Thân Đ P, sinh ngày 07/7/2002
Trú tại: 23 T, phường P, thành phố Nha Trang.
- Người đại diện hợp pháp: Bà Trương Mỹ A, là mẹ ruột của cháu Phát.
Trú tại: 23 T, phường P, thành phố Nha Trang.
Cháu Thân Đ P và bà Trương Mỹ A đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, Lý Thú Đ đến sân bóng đá tại Nhà văn hóa thiếu nhi, số 60 đường Thái Nguyên, phường Phương Sài, thành phố Nha Trang để đá bóng. Tại đây, Đ phát hiện 01 giỏ xách màu đen của Nguyễn Đình T để trong sân bóng, không có người trông giữ. Đ tiến đến mở giỏ xách, lấy 01 điện thoại di động Samsung A50-A505 màu đen, cất giấu vào người. Sau đó, Đ nhờ Thân Đ Phát chở đến cửa hàng điện thoại di động Hùng Hương (địa chỉ tại: 1141 đường 2/4, phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang) bán chiếc điện thoại trên với giá 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 345/HĐĐG ngày 12/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang kết luận: 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A50-A505 có giá trị 6.066.200 đồng (Sáu triệu không trăm sáu mươi sáu ngàn hai trăm đồng).
Tại bản cáo trạng số 273/CT-VKSNT ngày 05/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt bị cáo Lý Thú Đ mức án từ 6 tháng đến 9 tháng tù. về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết; tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 670.000 đồng; buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng. Xét thấy, ngày 01/10/2019, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và việc vắng mặt của các đương sự không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên căn cứ Điều 292,293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án theo thủ tục chung.
2]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, có đủ cơ sở để khẳng định, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong giai đoạn điều tra, truy tố là có tính khách quan và hợp pháp.
3]. Về nội dung: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Lý Thú Đ khai nhận, khoảng 17 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, tại sân bóng đá Nhà Văn Hóa Thiếu Nhi, số 60 đường Thái Nguyên, phường Phương Sài, thành phố Nha Trang, bị cáo đã trộm cắp chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A50 -A505 của cháu Nguyễn Đình T. Sau đó bị cáo nhờ Thân Đ Phát chở đến cửa hàng điện thoại di động Hùng Hương, số 1141 đường 2/4, phường Vạn Thạnh, thành phố Nha Trang do anh Trần Tuấn Hùng làm chủ bán chiếc điện thoại trộm cắp được với giá 1.700.000 đồng và tiêu xài cho cá nhân. Bị cáo khẳng định Thân Đ Phát, Trần Tuấn Hùng không biết gì về việc bị cáo trộm cắp tài sản và bị cáo bán tài sản trộm cắp vì bị cáo không nói cho Phát và Hùng biết.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận về nguồn tin tội phạm (BL4), với các biên bản làm việc, với lời khai của người bị hại (BL50-55), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (BL62-68), người làm chứng (BL 56-61) và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra, bị cáo đã đi khỏi địa phương, bị truy nã và ra đầu thú. Sau khi được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo lại tiếp tục trốn khỏi địa phương, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng nên bị bắt giam Do đó cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Xét bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.
5]. Về trách nhiệm dân sự: Tại Đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường; tại Biên bản lấy lời khai trong quá trình điều tra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng không yêu cầu bị cáo phải bồi thường (BL 62) nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu sau này đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với số tiền 1.700.000 đồng (Một triệu bảy trăm ngàn đồng) mà bị cáo có được từ việc bán chiếc điện thoại di động: Tại phiên tòa, bị cáo khai bị cáo đã tiêu xài vào mục đích cá nhân hết 1.030.000 đồng (Một triệu không trăm ba mươi ngàn đồng), còn lại 670.000 đồng (Sáu trăm bảy mươi ngàn đồng) đã giao nộp cho cơ quan công an. Hội đồng xét xử xét thấy số tiền 670.000 đồng là số tiền bị cáo thu lợi bất chính nên tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước.
6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
* Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Bị cáo Lý Thú Đ 9 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn tù tính từ ngay bắt giam, 13/01/2020.
Thời gian tạm giữ từ ngày 05/8/2019 đến ngày 08/8/2019 được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
* Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 670.000 đồng; theo Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước số CT: 0004830 ngày 15/8/2019 của Kho bạc Nhà nước thành phố Nha Trang.
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; bị cáo Lý Thú Đ phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 13/2020/HS-ST ngày 16/01/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 13/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về