Bản án 13/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 13/2020/HSST NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2020/TLST-HS ngày 20/02/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST-HS ngày 21/4/2020 đối với bi cao:

Đặng Chí C (Bi ca sỹ), sinh năm 1993 tại Bình Thuận - Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Hứa T1 và bà Đào Mai T2; Tiền án: Tại bản án số 199/2013/HSST ngày 15/11/2013, bị Tòa án nhân dân TP.P xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 23/3/2014; Tại bản án số 82/2017/HSST ngày 11/7/2017, bị Tòa án nhân dân TP.P xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 16/3/2018. Tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 187/2019/HSST ngày 27/11/2019, bị Tòa án nhân dân TP.P xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiện Đặng Chí C đang kháng cáo bản án. Bị bắt ngày 07/01/2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Ông Từ Sĩ Anh T – sinh năm 1998 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố PX, Thị trấn PL, huyện H, tỉnh Bình Thuận

* Người có quyền lợi liên quan:

1/ Bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: số 350/1 đường Đ, Tp P, tỉnh Bình Thuận.

2/ Ông Từ Sỹ T3, sinh năm 1970 (vắng mặt) Trú tại: Khu phố PX, thị trấn PL, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 22/8/2019, Đặng Chí C (sinh năm 1993, trú tại: khu phố 5, phường Đ, TP.P) đang chơi tại tiệm game bắn cá Rồng Vàng (thuộc khu phố 6, phường PT, TP.P) thì gặp Từ Sỹ Anh T (sinh năm 1998, trú tại: Khu phố PX, thị trấn PL, huyện H, tỉnh Bình Thuận) đến chơi cùng. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, C nói với T cho C mượn xe mô tô khoảng 30 phút để đi lấy điện thoại mà C đã sửa trước đó, T đồng ý và đưa xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B3-508.33 cùng chìa khóa xe cho C. Trong lúc đi lấy điện thoại về, khi đi ngang qua tiệm game bắn cá Kỳ Lân (thuộc khu phố 1, phường PT, TP.P). Tại đây, C thấy những người đang chơi game thắng nhiều nên lúc này C nảy sinh ý định lấy xe mô tô của T đi cầm thế để lấy tiền đi chơi game bắn cá. Sau đó, C điều khiển xe mô tô biển số 86B3- 508.33 đi đến phòng trọ của chị Nguyễn Thị L (sinh năm 1972, HKTT: khu phố 1, phường PT1, TP.P) tại xã HT, huyện H, tỉnh Bình Thuận nhằm mục đích cầm thế xe lấy tiền. Khi gặp chị L, C nói đây là xe của C, C đang cần tiền nên muốn cầm thế chiếc xe này, ngày mai C quay lại lấy. Vì tin tưởng nghĩ đó là xe của C và có quen biết nhau nên chị L đồng ý cầm thế xe cho C mà không hỏi giấy tờ. Cả hai thỏa thuận cầm thế với giá 2.000.000 đồng và không làm giấy tờ gì. Nhận tiền từ chị L, C đón xe ôm quay về tiệm game bắn cá Kỳ Lân để chơi và tiêu xài hết số tiền cầm thế xe trước đó.

T ngồi chờ C tại tiệm game bắn cá Rồng Vàng đến 17 giờ cùng ngày nhưng không thấy C quay lại trả xe nên đã đi về nhà. Đến khoảng 08 giờ ngày 23/8/2019, khi T đến tiệm game bắn cá Rồng Vàng thì gặp C đang chơi. Lúc này, T hỏi C: “Xe máy của em đâu?”, thì C trả lời: “Xe mày anh đi thế rồi, chờ chút rồi anh lấy tiền đi chuộc xe”. Nói xong T chở C đi mượn tiền nhưng không mượn được. Đến 16 giờ cùng ngày, T đến Công an phường PT, TP.P trình báo toàn bộ nội dung sự việc.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 184 ngày 06 tháng 9 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P kết luận: 01 chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius - Biển số 86B3-508.33, số khung: 1740HY032757, số máy: B3T6B206751 trị giá là: 16.800.000 đồng. (Bút lục 55-56) Vật chứng của vụ án: 01 chiếc xe máy hiệu Yamaha Sirius-Biển số 86B3- 508.33, số khung: 1740HY032757, số máy: B3T6B206751 (thu giữ của chị Nguyễn Thị L).

Quá trình điều tra, xác định chủ sở hữu xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B3-508.33 là của ông Từ Sỹ T3 (là cha đẻ của T, sinh năm 1970, trú tại: khu phố PX, thị trấn PL, huyện H, tỉnh Bình Thuận). Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô nói trên cho ông T3, sau khi nhận lại tài sản ông T3 và Từ Sỹ Anh T không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự. (Các bút lục 38-47, 67) Đối với chị Nguyễn Thị L, yêu cầu C 2.000.000 đồng, là số tiền cầm thế chiếc xe mô tô 86B3-508.33. Đến nay, C chưa bồi thường. (Bút lục 52-53) Ngoài ra, vào ngày 05/01/2020 tại khu phố 14, phường PT, TP.P, Đặng Chí C còn có hành vi trộm cắp tài sản là 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X của anh Nguyễn Văn Minh (sinh năm 1988, trú tại: Quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh). Hiện vụ việc đang được Cơ quan CSĐT-Công an TP.Phan Thiêt xác minh, làm rõ đưa ra xử lý sau.

Vê dân sư: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô nói trên cho ông T3, sau khi nhận lại tài sản ông T3 và T không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.

Đối với chị Nguyễn Thị L, yêu cầu C 2.000.000 đồng, là số tiền cầm thế chiếc xe mô tô 86B3-508.33. Buộc bị cáo C bồi thường cho chị L số tiền 2.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố Đặng Chí C về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm g, khoản 2, Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điêm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đặng Chí C mức án từ 02 năm 6 tháng (hai năm sáu tháng) đến 03 năm 6 tháng (ba năm sáu tháng) tù. Về dân sự: buộc bị cáo C trả cho chị Nguyễn Thị L số tiền 2.000.000 đồng.

Bị cáo không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Kiểm sát viên đồng thời thưa nhân toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là đầy đủ và tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 11 giờ ngày 22/8/2019, Đặng Chí C đã mượn chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 86B3-508.33 (trị giá 16.800.000đ) của anh Từ Sỹ Anh T để đi công việc. Sau khi mượn được xe, C nảy sinh ý định chiếm đoạt nên đã mang đi cầm thế chiếc xe này cho chị Nguyễn Thị L lấy 2.000.000.đồng rồi tiêu xài hết số tiền này và không có khả năng trả lại tài sản.

Hanh vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự của địa phương. Bị cáo đã bị kết án về tội “trộm cắp tài sản” với tình tiết “tái phạm” chưa được xóa án tích nay tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Đây là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo với tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo là một thanh niên khỏe mạnh, bị cáo ý thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ thế nhưng với bản chất tham lam tư lợi cao, muốn nhanh chóng có thu nhập mà không phải lao động nặng nhọc nên bị cáo đã lợi dụng sự tin tưởng của Anh T cho C mượn xe môtô để đi lấy điện thoại, bị cáo đã đem xe cầm thế cho chị L lấy số tiền 2.000.000 đồng, để thỏa mãn nhu cầu vật chất cá nhân, bất chấp pháp luật. Hành vi của bị cáo thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội nên cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự và áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc nhằm để răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

- Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa hôm nay cũng như quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy đinh tai điêm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ và với mức án mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có xem xét nhân thân của bị cáo xét thấy hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội nên việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội thêm một thời gian nhất định là cần thiết.

[5] Về dân sự: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố P đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe mô tô nói trên cho ông T3, sau khi nhận lại tài sản ông T3 và Từ Sỹ Anh T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên hội đồng xét xử không xét.

Đối với chị Nguyễn Thị L, yêu cầu C trả lại 2.000.000 đồng. Đây là số tiền C có được từ việc cầm thế chiếc xe mô tô 86B3-508.33 cho chị L do đó buộc bị cáo C bồi thường cho chị L số tiền 2.000.000 đồng là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 175, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tuyên bố: Bị cáo Đặng Chí C phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Đặng Chí C 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/01/2020.

- Về dân sự: Buộc bị cáo Đặng Chí C phải trả cho chị Nguyễn Thị L số tiền 2.000.000 đồng.

- Về án phí: Căn cứ khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Đặng Chí C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai. Quyền kháng cáo Bản án của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Quyền kháng cáo của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa liên quan là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/HSST ngày 05/05/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:13/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về