Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 18/06/2020 về không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 18 tháng 6 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 13/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2020 về “không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐST- HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đặng Thị K, sinh năm: 1973 (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Lương V, sinh năm: 1969 ( có mặt) Cùng địa chỉ: khu phố X, phường M, thành phố P, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn- Bà Đặng Thị K - trình bày:

Bà và ông Lương V sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1989 nhưng không đăng ký kết hôn do cuộc sống khó khăn, mải lo mưu sinh. Vợ chồng bà chung sống hạnh phúc cho đến năm 2018 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do ông V không lo làm ăn, thường xuyên say rượu về chửi mắng đánh đập bà, bà có yêu cầu cơ quan công an phường, cha mẹ họ hàng hai bên can thiệp nhiều lần nhưng ông V không thay đổi. Nay bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Lương V.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 4 con chung: các con lớn là Lương T sinh năm 1991 và Lương Đ sinh năm 1993 đã trưởng thành, hai con nhỏ là Lương M sinh ngày 10/02/2006 và Lương H sinh ngày 01/10/2013. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con và không yêu cầu ông V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – ông Lương V- trình bày:

Ông và bà Đặng Thị K sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1989 nhưng không đăng ký kết hôn do ông không hiểu biết pháp luật. Vợ chồng ông chung sống hạnh phúc cho đến năm 2018 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do bà K tự ý bỏ đi, vợ chồng cãi vã nhau thường xuyên, không hợp nhau về quan điểm sống. Nay trước việc bà K khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, tại phiên tòa sơ thẩm, ông đồng ý.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 4 con chung: các con Lương T sinh năm 1991 và Lương Đ sinh năm 1993 đã trưởng thành, riêng hai con Lương M sinh ngày 10/02/2006 và Lương H sinh ngày 01/10/2013 hiện đang sống chung cùng với cha mẹ. Trong quá trình hòa giải, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con và không yêu cầu bà K có nghĩa  vụ cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, ông đồng ý với ý kiến của bà K: bà K có quyền trực tiếp nuôi hai con, ông không có nghĩa vụ cấp dưỡng do bà K không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đặng Thị K và ông Lương V, công nhận sự thoả thuận của các đương sự về quan hệ con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Đặng Thị K và ông Lương V sống chung như vợ chồng từ năm 1989, tại phiên tòa mặc dù ông V đồng ý ly hôn nhưng do ông bà không đăng ký kết hôn, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, nên Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng của ông bà.

[2] Về quan hệ con chung: Tại phiên tòa sơ thẩm, các đương sự thỏa thuận một cách tự nguyện và không trái pháp luật, nên Hội đồng xét xử công nhận: Bà K có quyền trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Lương M sinh ngày 10/02/2006 và Lương H sinh ngày 01/10/2013. Ông V không có nghĩa  vụ cấp dưỡng nuôi con do bà K không yêu cầu.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Do bà K và ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, “trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu”, do đó bà K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 8 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 4 điều 147, điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 14, điều 15, điều 16, điều 53, điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đặng Thị K và ông Lương V.

Về quan hệ con chung:

Công nhận sự thoả thuận của các đương sự: Bà Đặng Thị K được quyền trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Lương M sinh ngày 10/02/2006 và Lương H sinh ngày 01/10/2013. Ông Lương V không có nghĩa  vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Đặng Thị K không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu ông Lương V lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Đặng Thị K có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đặng Thị K và ông Lương V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí:

Bà Đặng Thị K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0020623 ngày 09 tháng 01 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P. Bà Đặng Thị K đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, bị đơn. Quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 13/2020/HNGĐ-ST ngày 18/06/2020 về không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:13/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về