Bản án 13/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 13/2020/DS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 21/2020/TLST-DS ngày 23/6/2020 về tranh chấp “Hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXXST-DS, ngày 25/8/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng N; địa chỉ: Số 02 - đường L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T - Tổng Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Đăng K - Giám đốc Ngân hàng N Chi nhánh huyện Q Bắc Quảng Bình Người được ủy quyền lại: Ông Bùi Văn T - Giám đốc Phòng Giao dịch R Ngân hàng N Chi nhánh huyện Q Bắc Quảng Bình (văn bản ủy quyền số 816/NHNoQT-UQ ngày 28/9/2020); địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N; địa chỉ: thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Xuân H; địa chỉ:

tn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 09/3/2020, bản tự khai và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ngày 18/7/2018, bà Nguyễn Thị N đã ký kết với Phòng giao dịch R Ngân hàng N Chi nhánh huyện Q Bắc Quảng Bình Hợp đồng tín dụng số 3804LAV201804414 để vay số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng). Mục đích vay là mua tàu đánh cá, mua ngư lưới cụ bổ sung, thời hạn vay 60 tháng, kể từ ngày tiếp theo liền kề của ngày giải ngân đầu tiên, lãi suất 9,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất đối với tiền lãi chậm trả theo mức 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời giam chậm trả; định kỳ trả nợ gốc: Ngày 18/7/2019 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2020 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2021 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2022 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2023 trả số tiền 100.000.000 đồng; định kỳ trả lãi 06 tháng/lần vào ngày 31.

Để bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ của khoản vay bà Nguyễn Thị N đã dùng tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 198, tờ bản đồ số 10, được Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ559419, ngày 31/12/2013 mang tên Nguyễn Thị N, tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình thế chấp cho Ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 2527.639/HĐTC ngày 16/7/2018, Văn bản thỏa thuận thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay số 2527.639/VBTT ngày 16/7/2018.

Sau khi ký kết và thực hiện Hợp đồng bà N chỉ mới thanh toán được 22.904.109 đồng tiền lãi, đã không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết, không trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng.

Ngân hàng đã nhiều lần thông báo nợ đến hạn, quá hạn nhưng bà N liên tiếp vi phạm nghĩa vụ đã cam kết, không phối hợp xử lý tài sản bảo đảm, gây khó khăn cho công tác thu hồi vốn của Nhà nước và quá trình xử lý, thu hồi nợ của Ngân hàng.

Để thu hồi vốn cho Nhà nước, đại diện cho Ngân hàng vẫn giữ nguyên yêu cầu và phạm vi khởi kiện của mình. Đề nghị Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/9/2020) là 588.649.316 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là 88.649.316 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong tiền nợ.

Trường hợp bà N không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền trên cho Ngân hàng Agribank thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 198, tờ bản đồ số 10, được Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ559419, ngày 31/12/2013 mang tên Nguyễn Thị N, tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình để bảo đảm thu hồi nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng, thông báo thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập, thông báo phiên họp và hòa giải nhiều lần cho bà Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Xuân H nhưng bà N, anh H đều không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại nơi cư trú, người thân kết quả cho thấy: sau khi nhận được các văn bản tố tụng từ Tòa án thì chính quyền địa phương đã xử lý công văn đến, công văn đi theo quy định, cử cán bộ văn thư liên lạc giao đầy đủ cho phía đương sự. Tuy nhiên, bà N, anh H mặc dù có hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình nhưng hiện đã rời đi khỏi địa phương, hiện không biết đang làm ăn, sinh sống, địa chỉ cụ thể ở đâu. Tòa án đã tiến hành niêm yết văn bản tố tụng bảo đảm đúng quy định và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

* Đại diện VKSND huyện Quảng Trạch phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đại diện nguyên đơn đã tuân theo pháp luật tố tụng. Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 157, 158, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, 299, 317, 318, 320, 323, 401, 463, 466, 500 Bộ luật Dân sự; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc “tranh chấp Hợp đồng tín dụng” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị N. Buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ là 588.649.316 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/9/2020) là 88.649.316 đồng và phải tiếp tục trả khoản tiền lãi phát sinh sau ngày 30/9/2020 cho đến khi thanh toán xong tiền nợ. Trường hợp bà Nguyễn Thị N không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nợ thì Ngân hàng N có quyền xử lý hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp theo Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp, Văn bản thỏa thuận thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay để bảo đảm thu hồi nợ. Trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp không đủ trả nợ thì bà Nguyễn Thị N vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ cho Ngân hàng. Buộc bà Nguyễn Thị N phải hoàn trả cho Ngân hàng N số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước. Ngân hàng N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Gia Ngân hàng N với bà Nguyễn Thị N đã ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay với mục đích mua sắm tàu cá, ngư lưới cụ, sinh hoạt, tiêu dùng, do bà Nguyễn Thị N vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nên Ngân hàng khởi kiện tại Tòa án đòi số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng ký kết. Vì vậy, xác định đây là tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã tống đạt, triệu tập, niêm yết văn bản tố tụng theo quy định, bà Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Xuân H vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Xuân H

[2] Về nội dung tranh chấp, yêu cầu của đương sự:

Xét yêu cầu của nguyên đơn về khoản nợ vay, tài sản thế chấp thấy rằng: Ngày 18/7/2018, giữa bà Nguyễn Thị N đã ký kết với Phòng giao dịch R Ngân hàng N Chi nhánh huyện Quảng Trạch Bắc Quảng Bình Hợp đồng tín dụng số 3804LAV201804414 để vay số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng). Mục đích vay là mua tàu đánh cá, mua ngư lưới cụ bổ sung, thời hạn vay 60 tháng, kể từ ngày tiếp theo liền kề của ngày giải ngân đầu tiên, lãi suất 9,5%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất đối với tiền lãi chậm trả theo mức 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời giam chậm trả; định kỳ trả nợ gốc: Ngày 18/7/2019 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2020 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2021 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2022 trả số tiền 100.000.000 đồng, ngày 18/7/2023 trả số tiền 100.000.000 đồng; định kỳ trả lãi 06 tháng/lần vào ngày 31. Trên cơ sở Hợp đồng ký kết, Ngân hàng đã giải ngân số tiền vay cho bà N vay như thỏa thuận.

Để bảo đảm toàn bộ nghĩa vụ của khoản vay, giữa bà Nguyễn Thị N và Ngân hàng đã ký kết Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 2527.639/HĐTC ngày 16/7/2018, Văn bản thỏa thuận thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay số 2527.639/VBTT ngày 16/7/2018. Bà N dùng tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 198, tờ bản đồ số 10, được Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ559419, ngày 31/12/2013 mang tên Nguyễn Thị N, tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình thế chấp cho Ngân hàng. Hợp đồng, văn bản được đăng ký thế chấp, chứng thực hợp pháp.

Như vậy, Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp, Văn bản thỏa thuận ký kết được các bên thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, có nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật, là hợp đồng hợp pháp nên có hiệu lực thi hành, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên, buộc các bên phải thực hiện.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay bà Nguyễn Thị N chỉ mới thanh toán được cho Ngân hàng số tiền lãi là 22.904.109 đồng, không thực hiện nghĩa vụ trả tiền gốc, tiền lãi theo khoản vay của Hợp đồng tín dụng ký kết, đã vi phạm cam kết, vi phạm nghĩa vụ của kỳ trả nợ gốc và nợ lãi hàng tháng, vi phạm thời hạn thanh toán, khoản nợ đã chuyển sang quá hạn. Vì vậy, Ngân hàng đã khởi kiện tại Tòa án để thu hồi khoản tiền nợ vay theo quy định. Ngân hàng đã xác định tiền nợ, tính lãi với mức lãi suất, thời gian vi phạm theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Bảng tính tiền nợ gốc, lãi do Ngân hàng cung cấp cho Tòa án đã tính đúng số tiền nợ, số ngày, mức lãi suất áp dụng trong hợp đồng tín dụng ký kết. Tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/9/2020) bà Nguyễn Thị N còn nợ Ngân hàng N số tiền là 588.649.316 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi là 88.649.316 đồng.

[3] Đối với bà Nguyễn Thị N, anh Nguyễn Xuân H, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng, triệu tập nhiều lần nhằm tạo điều kiện để các bên có mặt hòa giải, thống nhất, thỏa thuận phương án giải quyết vụ án, phương thức thanh toán khoản tiền nợ nhưng không có kết quả. Bà N, anh H đã bỏ đi khỏi địa phương, không cung cấp tin tức, địa chỉ cho Ngân hàng và Tòa án biết, cố tình giấu địa chỉ, vắng mặt, cố tình không chấp hành theo thông báo, triệu tập của Tòa án nhằm gây khó khăn, cản trở cho việc giải quyết vụ án. Điều này thể hiện việc không chấp hành, không thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đối với khoản nợ vay Ngân hàng và pháp luật. Tòa án đã niêm yết các văn bản tố tụng và xét xử vụ án theo theo quy định của pháp luật.

[4] Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N buộc bị đơn bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ khoản tiền nợ cho Ngân hàng là hoàn toàn có căn cứ, được chấp nhận. Căn cứ vào Điều 117, 299, 317, 318, 320, 323, 401, 463, 466, 500 Bộ luật Dân sự; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ là 588.649.316 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/9/2020) là 88.649.316 đồng.

Trường hợp bà Nguyễn Thị N không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nợ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm thu hồi nợ. Trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp không đủ trả nợ thì bà N vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ cho Ngân hàng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (30/9/2020), bà Nguyễn Thị N còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

[5] Xét quan điểm, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ Điều 157, 158 Bộ luật Tố tụng dân sự, buộc bà Nguyễn Thị N phải chịu 2.000.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. Ngân hàng N đã nộp tạm ứng số tiền trên nên buộc bà Nguyễn Thị N phải hoàn trả cho Ngân hàng N số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000 đồng

[7] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị đơn bà Nguyễn Thị N phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 157, 158, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, 299, 317, 318, 320, 323, 401, 463, 466, 500 Bộ luật Dân sự; Điều 91 và 95 Luật Các tổ chức tín dụng; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng N về việc “tranh chấp Hợp đồng tín dụng” đối với bị đơn bà Nguyễn Thị N.

Buộc bà Nguyễn Thị N phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N tổng số tiền nợ là 588.649.316 đồng, trong đó: tiền nợ gốc là 500.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 30/9/2020) là 88.649.316 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (30/9/2020), bà Nguyễn Thị N còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

Trường hợp bà Nguyễn Thị N không trả hoặc trả không đầy đủ số tiền nợ thì Ngân hàng N có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 198, tờ bản đồ số 10, được Ủy ban nhân dân huyện Quảng Trạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ559419, ngày 31/12/2013 mang tên Nguyễn Thị N, tại thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Bình theo Hợp đồng tín dụng ký kết số 3804LAV201804414 ngày 18/7/2018, Hợp đồng thế chấp số 2527.639/HĐTC ngày 16/7/2018, Văn bản thỏa thuận thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay số 2527.639/VBTT ngày 16/7/2018 để bảo đảm thu hồi nợ. Trong trường hợp giá trị tài sản thế chấp không đủ trả nợ thì bà Nguyễn Thị N vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ cho Ngân hàng.

2. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Nguyễn Thị N phải hoàn trả cho Ngân hàng N số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 2.000.000 đồng 3. Về án phí:

3.1. Buộc bà Nguyễn Thị N phải chịu 27.545.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước.

3.2. Ngân hàng N được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 13.142.000 đồng theo biên lai thu số 0007405 ngày 22/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, báo cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2020/DS-ST ngày 30/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:13/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về