TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 13/2020/DSST NGÀY 18/09/2020 VỀ VIỆC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 18/9/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 95/2020/TLST-DSST ngày 10/7/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐ-DSST ngày 26/8/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 54/QĐST-DS ngày 09/9/2020, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ph, sinh năm: 1971; Trú tại: Tổ 08, phường Đ, quận C, thành phố Đà Nẵng. Có mặt
* Bị đơn: Bà Võ Thị H, sinh năm: 1970; Trú tại: Tổ 07, Thôn T, xã Ph, huyện V, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn - bà Lê Thị Ph trình bày: Thông qua mối quan hệ quen biết, vào ngày 22/12/2019, bà Võ Thị H, sinh năm 1970. Trú tại: Thôn T, xã Ph, huyện Hòa Vang, Tp. Đà Nẵng có mượn của bà số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng chẵn) với mục đích buôn bán làm ăn, vì tin tưởng nên đã cho mượn, khi mượn bà H có viết giấy mượn tiền và hẹn thời hạn trả là sau 01 tháng kể từ ngày mượn. Tuy nhiên, đến hạn trả nợ bà đã nhiều lần yêu cầu bà H trả nhưng vẫn không thực hiện trả nợ. Bà H cố tình né tránh và thiếu thiện chí trả nợ. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Võ Thị H có trách nhiệm trả cho bà số tiền gốc 200.000.000 đồng trên và yêu cầu tiền lãi xuất từ ngày 23/01/2020 đến ngày 18/9/2020 là 07 tháng 26 ngày theo quy định của pháp luật.
Tổng cộng bà Lê Thị Ph yêu cầu bà Võ Thị H phải trả tính đến ngày 18/9/2020 là 213.105.866 đồng (trong đó, tiền gốc 200.000.000 đồng và tiền lãi 13.105.866 đồng) và tiếp tục trả lãi cho đến khi trả nợ xong tiền gốc theo quy định của pháp luật. Số tiền trên yêu cầu trả một lần.
Tại bản tự khai, quá trình tố tụng - Bị đơn bà Võ Thị H trình bày:
Bà thừa nhận có viết giấy mượn tiền của bà Lê Thị Ph vào ngày 22/12/2019 với số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng chẵn) với mục đích buôn bán làm ăn và hẹn thời hạn trả cho bà Ph là sau 01 tháng kể từ ngày mượn nhưng do làm ăn khó khăn nên từ khi mượn tiền đến nay vẫn chưa trả được cho bà Ph đồng nào. Nay bà Lê Thị Ph khởi kiện đòi tiền gốc 200.000.000 đồng và tiền lãi theo quy định của pháp luật thì bà Võ Thị H thống nhất số nợ nhưng xin trả dần mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi hết nợ gốc, còn tiền lãi bà đồng ý nhưng xin trả dần sau khi trả xong nợ gốc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của bà Lê Thị Ph nộp tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và Tòa án đã thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 26; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Lê Thị Ph vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn.
Tại phiên tòa, bị đơn là bà Võ Thị H được triệu tập lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]Về nội dung vụ án: Vào ngày 22/12/2019, bà Võ Thị H có mượn của số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng chẵn) với mục đích buôn bán làm ăn, khi mượn bà H có viết giấy mượn tiền và hẹn thời hạn trả là sau 01 tháng kể từ ngày mượn. Tuy nhiên, đến hạn trả nợ bà Ph đã nhiều lần yêu cầu bà H trả nhưng vẫn không thực hiện trả nợ. Bà H cố tình né tránh và thiếu thiện chí trả nợ. Vì vậy, bà Phùng khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Võ Thị H có trách nhiệm trả cho bà số tiền gốc 200.000.000 đồng trên và yêu cầu tiền lãi xuất theo quy định của pháp luật cho đến khi trả xong nợ gốc. Và tiếp tục trả lãi cho bà cho đến khi trả nợ xong tiền gốc theo quy định của pháp luật. Bà yêu cầu trả một lần.
[3]Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy: Vào ngày 22/12/2019, bị đơn bà Võ Thị H có viết giấy mượn tiền và hẹn thời hạn trả là sau 01 tháng kể từ ngày mượn với số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng chẵn) của bà Lê Thị Ph với mục đích buôn bán làm ăn. Tuy nhiên, từ khi mượn tiền đến nay và Võ Thị H chưa trả cho bà Lê Thị Ph đồng nào, mặc dù đến hạn trả nợ bà Ph đã nhiều lần yêu cầu bà H thanh toán nhưng vẫn không thực hiện trả nợ. Vì vậy, bà Ph khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Võ Thị H có trách nhiệm trả cho bà số tiền gốc 200.000.000 đồng trên.
Với chúng cứ là giấy mượn tiền do nguyên đơn xuất trình là có căn cứ. Xét thấy số tiền bà H viết giấy mượn tiền nợ bà Ph đã lâu nhưng bà H không có thiện chí trả nợ dứt điểm cho bà Ph. Vì vậy, việc bà Ph khởi kiện yêu cầu bà H trả nợ là hoàn toàn chính đáng và phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên cần chấp nhận.
Xét yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật cho đến khi trả xong nợ gốc mà bà Lê Thị Ph yêu cầu thì thấy: Tiền lãi tính từ ngày 23/01/2020 đến ngày 18/9/2020 là 07 tháng 26 ngày. Cụ thể: 200.000.000 đồng (gốc) x 10%/12 tháng (lãi) = 1.666.000 đồng x 07 tháng 26 ngày = 13.105.866 đồng. HĐXX thấy yêu cầu tính lãi của nguyên đơn bà Lê Thị Ph là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
Đối với bị đơn bà Võ Thị H mặc dù tại phiên tòa vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình tố tụng thống nhất số nợ nhưng xin trả dần mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi hết nợ gốc 200.000.000 đồng, còn tiền lãi bà đồng ý nhưng xin trả dần sau khi trả xong nợ gốc đã không được nguyên đơn bà Lê Thị Ph chấp nhận nên HĐXX thấy không có cơ sở xem xét mà cần buộc bà Võ Thị H phải có trách nhiệm trả cho bà Lê Thị Ph số tiền gốc và lãi là phù hợp.
[4]Án phí dân sự sơ thẩm bà Võ Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 463, Điều 466, Điều 470 Bộ luật dân sự. Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của bà Lê Thị Ph đối với bà Võ Thị H.
Xử: Buộc bà Võ Thị H phải có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị Ph số tiền 213.105.866 đồng (trong đó tiền gốc 200.000.000 đồng, tiền lãi 13.105.866 đồng) ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền.
Án phí dân sự sơ thẩm 10.655.293 đồng bà Võ Thị H phải chịu. Hoàn trả lại cho bà Lê Thị Ph số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.208.325 đồng, theo biên lai thu số 0000309 ngày 08/7/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
Án xử công khai sơ thẩm nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 13/2020/DSST ngày 18/09/2020 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Số hiệu: | 13/2020/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về