Bản án 13/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 13/2019/HS-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚ

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Trần Q, sinh năm 1988, tại tỉnh Hậu Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã P, thị xã M, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần D và bà Nguyễn N; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 03/4/2019 (có mặt).

2. Nguyễn H, sinh năm 1994, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã T, thành phố N, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn M và bà Trương M; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 03/4/2019 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 00 giờ 40 phút ngày 03/4/2019, tại quầy lễ tân nhà nghỉ P thuộc khu phố 2, phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra về ma túy Công an thị xã C kết hợp cùng Công an phường P, thị xã C, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính Trần Q và Nguyễn H. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện trong lòng bàn tay trái của Nguyễn H có 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, trong ngăn lớn nhất của chiếc ba lô màu đen hiệu Bocsh của Trần Q đang mang sau lưng có 01 gói nylon hàn kín chứa chất màu trắng được bỏ trong túi nylon miệng keo dính. H, Q khai nhận là ma túy đá.

Vật chứng thu giữ gồm.

01 (một) gói nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể dạng màu trắng thu trong lòng bàn tay của H.

01 (một) túi nylon miệng keo dính bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng thu trong ba lô Trần Q đang mang.

01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy của Trần Q.

01 ba lô màu đen nhãn hiệu BOSCH 01 điện thoại Iphone màu hồng số IMET 355876066206610 của Trần Q.

01 xe mô tô nhãn hiệu Luvias biển số 61H1- 31689.

Tại Cơ quan điều tra Trần Q và Nguyễn H khai nhận khoảng 19 giờ ngày 02/4/2019, Q và H uống cà phê tại quán cà phê không tên ở đường D9 thuộc phường H, thị xã C, tỉnh Bình Dương, Q rủ H sử dụng ma túy, H đồng ý. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Q kêu H ngồi đợi Q đi ra ngoài có công việc, sau khi ra xe Q điện thoại cho người đàn ông tên D để mua 100.000 đồng ma túy, D hẹn Q giao dịch gần xây xăng H, Q điều khiển xe mô tô hiệu Luvias biển số 61H1- 31689 đến điểm hẹn. Tại đây, Q đưa cho D 100.000 đồng, D đưa cho Q 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá. Đến khoảng 00 giờ 30 ngày 03/4/2019, Q và H bàn bạc cùng nhau đến nhà nghỉ P thuộc phường P để thuê phòng sử dụng ma túy, Q đưa cho H cất giữ gói ma tuy rồi điều khiển xe mô tô biển số 61H1- 31689 chở H đến nhà nghỉ P. Khi đến nơi, cả hai đang đứng ở quầy lễ tân để thuê phòng thì lực lượng Công an đến kiểm tra hành chính phát hiện ma túy trong lòng bàn trái của Hận.

Theo kết luận giám định số 284/MT-PC09 ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể có trọng lượng: M1= 0.1032 gam, loại Methamphetamine, mẫu vật sau khi giám định hoàn lại 0,0502 gam.

Đối với gói nylon hàn kín chứa chất màu trắng để trong túi nylon miệng keo dính trong ba lô màu đen nhãn hiệu BOSCH Q thừa nhận mua của đối tượng tên Diện vào khoảng 05 giờ ngày 31/3/2019 tại khu vực cây xăng H với giá tiền 100.000 đồng. Do đi làm về mệt, buồn ngủ, Quốc lấy gói ma túy cất giấu vào trong ba lô sau đó Q đi ngủ. Đến ngày 02/4/2019, Q gặp H, rủ H sử dụng ma túy đá H đồng ý, do quên trong ba lô còn có ma túy mua ngày 31/3/2019 nên Q tiếp tục đi mua ma túy về để sử dụng chung với H. H không biết Q tàng trữ gói ma túy trong ba lô Q mang theo.

Theo kết luận giám định số 284/MT-PC09 ngày 11/4/2019 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể có trọng lượng: M2= 0,0588 gam, loại Methamphetamine, mẫu vật sau khi giám định được hoàn lại 0,0368.

Đối với xe mô tô hiệu Luvias biển số 61H1- 31689 là của ông Trần V, ông V cho Q mượn xe để đi công việc nên ngày 24/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã C ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả xe cho anh Trần Tuấn Vũ.

Tại bản Cáo trạng số 135/CT-VKSBC ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Q và Nguyễn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Trần Q mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn H mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 284/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong có chứa 0,0502gam (M1), 0,0368gam (M2) Methamphetamine; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 balo màu đen nhãn hiệu BOSCH.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Iphone màu hồng số IMET 35587606606610 của bị cáo Q.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 02/4/2019, Q mua ma túy từ người đàn ông tên D tại khu vực gần cây xăng H thuộc phường H, thị xã C 100.000 đồng ma túy rồi đưa cho H cất giấu rồi cùng với H đến nhà nghỉ P thuộc phường P, thị xã C thuê phòng sử dụng thì bị Công an phát hiện H đang cất giấu ma túy trong lòng bàn tay, vật chứng thu giữ, niêm phong ký hiệu M1. Ngoài ra, qua kiểm tra thì Q còn cất giấu ma túy trong balo Q đang mang trên người mà H không biết, vật chứng bị thu giữ niêm phong ký hiệu M2.

Theo Kết luận giám định số 284/MT-PC09 ngày 11/4/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 0,1032gam (M1), 0,0588 gam (M2). Mẫu vật sau giám định được niêm phong, trọng lượng 0,0502gam (M1), 0,0368gam (M2).

Các bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, hành vi của bị cáo Q mua 0.1032 gam Methamphetamine của đối tượng D đưa cho bị can H cất giấu nhằm mục đích sử dụng chung và hành vi cất giấu 0,0588 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, tổng trọng lượng 0,1620 gam của bị cáo Q đã đủ yêu tố cầu thành tộ “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi cất giấu 0.1032 gam Methamphetamine của bị cáo H nhằm mục đích sử dụng đã đủ yêu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Do đó, Cáo trạng số 135/CT-VKSBC ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của Nhà nước. Bị cáo biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Hôi đồng xet xư thấy cần xư phat bi cao vơi mưc an tương ưng vơi tinh chất, mưc độ cua hành vi phạm tội nhưng có xem xet đến cac tình tiết tăng năng, giảm nhe trach nhiêm hinh sư cung như nhân thân cua bi cao nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội và phòng ngừa chung.

Các bị cáo phạm tội với tính chất đồng phạm, trong đó bị cáo H không phải là người khởi xướng, bị cáo có vai trò là người thực hành, thể hiện qua việc bị cáo trực tiếp cất giấu ma túy trong lòng bàn tay để mang đi thuê nhà nghỉ sử dụng. Đối với bị cáo Q, ngoài việc trực tiếp chở H đi thuê nhà nghỉ sử dụng ma túy thì bị cáo còn chính là người chủ mưu, lôi kéo bị cáo H thực hiện tội phạm. Mặt khác, ngoài số ma túy tàng trữ cùng với H ra thì bị cáo Q còn tàng trữ riêng ma túy để sử dụng. Do vậy, xét về tính chất, mức độ phạm tội thì bị cáo Q là người có vai trò cao hơn nên bị cáo phải chịu mức phạt cao hơn bị cáo Hận.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 284/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0502gam (M1); 0,0368 gam (M2) Methamphetamine; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 balo màu đen hiệu BOSCH.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Iphone màu hồng số IMET 35587606606610 của bị cáo Q, do bị cáo sử dụng điện thoại này vào việc phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

[5] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và 58 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Trần Q và Nguyễn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Q 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 03/4/2019. Xử phạt bị cáo Nguyễn H 01 năm tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày 03/4/2019.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín số 284/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương bên trong chứa 0,0502 gam (M1); 0,0368 gam (M2) Methamphetamine; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 balo màu đen hiệu BOSCH.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động Iphone màu hồng số IMET 35587606606610.

(theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 21/8/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát và Công an thị xã Bến Cát).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-ST ngày 23/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:13/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về