Bản án 13/2019/HS-PT ngày 25/01/2019 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 13/2019/HS-PT NGÀY 25/01/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 18/01 đến ngày 25/01/2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 73/2018/TLPT-HS ngày 17 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo Phạm Văn H và đồng phạm. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án Hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 07/08/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước.

Các bị cáo có kháng cáo:

1.Họ và tên:Phạm Văn H(Tên gọi khác: HĐB) sinh năm: 1986 tại: Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Phú C, sinh năm: 1953 và bà: Bùi Thị T, sinh năm: 1953; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1992 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2014; bị cáo có 02 tiền án: Ngày 22/11/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù giam về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; ngày 02/6/2016 Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xử phạt 07 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” tại Bản án số: 22/2016/HSST, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/03/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên:Huỳnh Văn M(Tên gọi khác: MT) sinh năm: 1970 tại: Tây Ninh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam;tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông:Huỳnh Văn D, sinh năm: 1933 và bà: Nguyễn Thị T2, sinh năm: 1937; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm: 1969 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 1989 nhỏ nhất sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/02/2018 cho đến ngày 08/6/2018 được tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên:Huỳnh Văn M1(Tên gọi khác: T3) sinh năm: 1989 tại Tây Ninh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;con ông: Huỳnh Văn M, sinh năm: 1970 và bà: Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm: 1969; bị cáo có vợ tên Trương Thị H1, sinh năm: 1990 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/01/2018 cho đến ngày 01/6/2018 được tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Trần Dương H2, sinh năm: 1997 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Trọng K, sinh năm: 1972 và bà: Dương Thị Thanh T4; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 27/04/2018được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, bị cáo tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Trần Công H3 (Tên gọi khác: B) sinh năm: 1982; tại Thừa Thiên Huế; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Công T5, sinh năm: 1953 và bà: Lê Thị X, sinh năm: 1955; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 13/02/2018 được thay đổi biện pháp tạm giam bằng biện pháp cho bảo lĩnh, bị cáo tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên:Bùi Ái Q, Sinh năm 1983; tại Tiền Giang; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 5/12;dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn Đ, sinh năm: 1950 và bà: Võ Thị Út, sinh năm: 1955; bị cáo có vợ tên Hồ Thị Tuyết M2, sinh năm: 1987; bị cáo có 02 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7. Họ và tên:Kiều Văn T6,sinh năm 1990, tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Kiều Văn Đ1, sinh năm: 1966 và bà: Mai Thị C1, sinh năm: 1967; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 25/5/2018 được tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Họ và tên:Bùi Văn H4(Tên gọi khác: Đ2)sinh năm 1987 tại: Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Văn N, sinh năm: 1959 và bà: Võ Thị Cẩm T7 (Đã chết); bị cáo có vợ tên Lê Thị Kim D1, sinh năm: 1993 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm: 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

9. Họ và tên:Nguyễn Chí T8,sinh năm 1987 tại Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L và bà: Võ Thị H5; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Hồng G, sinh năm: 1993 và 01 ng ười con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10. Họ và tên:Nguyễn Văn H6(Tên gọi khác: H6 ĐT) sinh năm 1984 tại Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Thợ sửa điện tử; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn N1, sinh năm: 1964 và bà: Phạm Thị U, sinh năm: 1963; bị cáo có vợ tên Trần Thị D2, sinh năm: 1993; bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

11. Họ và tên:Hồ Hoàng T9, sinh năm 1979 tại: Vĩnh Long; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp 9, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hồ Văn A1, sinh năm: 1954 và bà: Lê Thị P, sinh năm: 1955; bị cáo có vợ Trương Thị D3, sinh năm: 1978 và02 người con, lớn nhất sinh năm 2001, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 02/02/2018 bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. 12. Họ và tên:Lê T10,sinh năm 1990, tại: Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước;giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 05/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông: Lê Văn G1, sinh năm: 1957 và bà: Lê Thị L1, sinh năm: 1959; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được cho tại ngoại để điều tra cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Ông Đào Xuân T11, sinh năm: 1976 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 3, khu phố T, phường T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước.

Người làm chứng:

- Phạm Văn V, sinh năm: 1981 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Đàm Văn G2, sinh năm: 1985 (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Trầm Thế P1, sinh năm 1982(Có mặt)

Địa chỉ: Số 567, tổ 74, khu phố 11, phường P, TP. T, tỉnh Bình Dương.

- Phạm Minh H7, sinh năm 1983 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Huỳnh Văn C2, sinh năm 1995 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Võ H8, sinh năm 1983 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Nguyễn Đức T12, sinh năm 1998 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Trần Thị H9, sinh năm 1963 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Châu Mộng C3, sinh năm 1997 (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Huỳnh Quốc Y, sinh năm 1997 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Hà Thị D4, sinh năm 1959 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Đoàn Thị H10, sinh năm: 1962 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Phan Thị Ngọc H11, sinh năm: 1953 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm: 1969 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Lê Tấn L2, sinh năm 1998 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Doãn Văn T13, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Bùi Thị K1, sinh năm 1966 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Nguyễn Thị Thủy T14, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Lâm Thị B1, sinh năm 1986 (Có mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Huỳnh Minh P2, sinh năm 1998(Vắng mặt)

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Chổ ở hiện nay: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Trần Văn M4, sinh năm 1951 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Huỳnh Văn L3, sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp K57, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.

- Nguyễn Văn Út B2, sinh năm 1967 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã Q, huyện C, tỉnh Bến Tre.

- Phạm Văn U1, sinh năm 1985 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn H là người được ông Đào Xuân T11 ủy quyền trông coi, quản lý khối tài sản, nhà kho trên diện tích 4.618 m2  đất. Trong phạm vi quyền hạn được ủy quyền H đã đồng ý cho Huỳnh Văn M vào trong khu vực kho hàng dựng chòi, sử dụng cũng như chuẩn bị các công cụ phục vụ việc tổ chức đá gà, cá cược sát phạt bằng tiền. Đồng thời thuê Trầm Thế P1 và Phạm Minh H7 tổ chức sòng bạc "Tài xỉu" trong khuôn viên khu đất kho hàng. Để thực hiện mục đích trên ngày 17/01/2018 Huỳnh Văn M đã dựng chòi, xới đá gà (Bồ gà) cựa sắt, băng keo, nước suối. Đồng thời M đưa con gồm: Huỳnh Văn M1, Huỳnh Văn C2, Châu Mộng C3 vào giúp cho việc tổ chức đá gà. Ngày 18/01/2018 Trầm Thế P1 và Phạm Minh H7 vào tổ chức sòng lắc tài xỉu, trong công việc tổ chức 02 sòng bạc trên Huỳnh Văn M phân công Huỳnh Văn M1 (T3) chịu trách nhiệm thông báo cách thức đá gà ra giá cá cược thu giữ chi trả số tiền cá cược cùng với M. M còn thuê Võ H8 và Nguyễn Đức T12 cảnh giới hai bên tường rào kho hàng, Châu Mộng C3 bán nước phục vụ cho các con bạc. Trầm Thế P1 nhận 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) từ Phạm Văn H (HĐB) làm vốn lắc tài xỉu cùng với Phạm Minh H7, Trầm Thế P1 thuê Huỳnh Văn C2 gác cổng canh chừng để cho P1 và H7 tổ chức lắc tài xỉu. Để tổ chức cho hai sòng bạc có quy mô lớn Phạm Văn H, Huỳnh Văn M, Trầm Thế P1, Phạm Minh H7 đã phân công bố trí cụ thể từng người, từng công việc. Ngày 27/01/2018 lực lượng Công an huyện B đã triển khai triệt phá bắt quả tang 02 sòng bạc thu giữ số tiền dùng vào việc đánh bạc; tại sòng đá gà 73.310.000 đồng, sòng lắc tài xỉu 30.100.000 đồng. Trong quá trình điều tra xác định được như sau: Huỳnh Văn M cá cược đá gà với Trần Thị H9 500.000 đồng, Phạm Văn H cá cược đá gà với Nguyễn Chí T8 5.000.000đồng. Trần Công H3 sử dụng 21.200.000 đồng cá cược đá gà, Lâm Thị B1 sử dụng 9.200.000 đồng để cá cược đá gà, Kiều Văn T6 sử dụng 15.750.000 đồng cá cược đá gà, Hồ Hoàng T9 sử dụng 1.500.000 đồng cá cược đá gà, Trần Văn M4 sử dụng 200.000 đồng cá cược đá gà. Huỳnh Văn L3 sử dụng 860.000 đồng cá cược đá gà, Nguyễn Văn Út B2 tham gia cá cược giúp cho Phạm Văn U1 cá cược đá gà 1.000.000 đồng, Bùi Văn H4 cá cược đá gà1.000.000 đồng. Nguyễn Văn H6 cá cược đá gà 8.000.000đồng, Nguyễn Chí T8 giúp H6 đặt cược, đồng thời tham gia cá cược đá gà 2.000.000đồng, Bùi Ái Q cá cược đá gà 500.000đồng, Lê T10 cá cược đá gà 4.000.000đồng. Huỳnh Minh P2 là người được Trần Công H3 thuê chăm sóc và giúp băng cựa gà phục vụ cho H3 cá cược, khi H3 thắng cho P1 500.000đồng, thua cho 200.000đồng, Trần Dương H2 cá cược đá gà 200.000đồng.

Tại sòng lắc tài xỉu, Huỳnh Quốc Y sử dụng 3.000.000 đồng đặt cược, Phan Thị Ngọc H11 sử dụng 2.200.000 đồng đặt cược, Trần Thị H9 tham gia đặt  cược  từ  10.000  đồng  đến  20.000  đồng/ván,  Trần  Dương  H2  sử  dụng 2.000.000 đồng đặt cược, Hà Thị D4 sử dụng 780.000 đồng đặt cược. NguyễnThị Ngọc A đặt cược 60.000 đồng. Nguyễn Thị Thủy T14 sử dụng 1.900.000đồng, Đoàn Thị H10 (Lệ) sử dụng 810.000 đồng đặt cược, Doãn Văn T13 sử dụng 2.510.000 đồng, Lê Tấn L2 sử dụng 70.000 đồng đặt cược.

Khi bắt quả tang, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ tang vật gồm: 06 con gà; 11 cặp cựa gà; 101 cuộn băng keo; 218 vỏ băng keo; 01 cân đồng hồ hiệu Nhơn Hòa loại 5kg; 04 lồng úp gà bằng kim loại; 06 giỏ đựng gà; 21 hột xúc xắc (Xí ngầu); 01 đĩa sứ; 01 bàn gỗ kích thước 55cm x56cm x120cm; tiền 69.584.000 đồng (Sáu mươi chín triệu năm trăm tám mươi bốn nghìn đồng); điện thoại di động 16 cái; 12 xe mô tô và một số vật chứng khác.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Doãn Văn T13 đã tự nguyện giao nộp số tiền tham gia đánh bạc là: 1.410.000 đồng (Một triệu bốn trăm mười ngàn đồng)

Qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã chứng minh được ngày27/01/2018, tổng số tiền mà những người tham gia đánh bạc đã và đang sử dụng để chơi đá gà là: 73.310.000 đồng (Bảy mươi triệu, ba trăm mười nghìn đồng); Tổng số tiền đã và đang sử dụng để chơi tài xỉu là 30.100.000 đồng (Ba mươi triệu một trăm nghìn đồng) và tổng số tiền các bị cáo thu lợi bất chính là:29.700.000 đồng, trong đó: Phạm Văn H thu lợi bất chính 10.950.000 đồng; Huỳnh Văn Mthu lợi bất chính 8.330.000 đồng; Huỳnh Văn M1 thu lợi bất chính 4.870.000 đồng; Trầm Thế P1 thu lợi bất chính 1.100.000 đồng; Phạm Minh H7 thu lợi bất chính 1.600.000 đồng; Huỳnh Văn C2 thu lợi bất chính2.000.000 đồng; Võ H8 thu lợi bất chính 350.000 đồng; Nguyễn Đức T12 thulợi bất chính 500.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước đã tuyên xử:

Về tội danh:

Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Văn Hphạm tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”

Bị cáo Huỳnh Văn M phạm tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”. Các bị cáo Huỳnh Văn M1phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Các bị cáo Trần Công H3, Kiều Văn T6, Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2phạm tội “Đánh bạc”.

Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 322 điểm b, d khoản 2 Điều 321; khoản 2Điều 51; Điều 38, 55, 17, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Phạm Văn H 05(Năm) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 03(Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của cả 02 tội là 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụngđiểm b khoản 2 Điều 321 điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 55, 17, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Huỳnh Văn M 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, 01(Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội là04 (Bốn) năm 06(Sáu) tháng tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/02/2018 đến ngày 08/6/2018, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 17, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Huỳnh Văn M1 01(Một) năm 03(Ba) tháng tù, được trừ đi thời giam bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/01/2018 đến ngày 01/6/2018; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; 17; 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Nguyễn Văn H6 03(Ba) năm 03(Ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạt Lê T10 03(Ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạt Nguyễn Chí T8 03(Ba) năm 03(Ba) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạt Bùi Ái Q 03(Ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạtBùi Văn H403(Ba) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thihành án.

Xử phạtHồ Hoàng T903(Ba) năm tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/01/2018 đến ngày 03/02/2018; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạtTrần Công H303(Ba) năm 03(Ba) tháng tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 13/02/2018; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạtTrần Dương H203(Ba) năm tù, được trừ đi thời gian bị tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 27/4/2018;thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạtKiều Văn T603(Ba) năm 03(Ba) tháng tù, được trừ đi thời gian bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/01/2018 đến ngày 25/5/2018; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử phạt các bị cáo khác và về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/8/2018 bị cáo Phạm Văn H kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm xem xét lại hành vi phạm tội của bị cáo với Trầm Thế P1 về tội “Tổ chức đánh bạc” và xin giảm nhẹ hình phạt cả hai tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánhbạc”.

Ngày 08/8/2018 bị cáo Bùi Văn H4 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Ngày 09/8/2018 bị cáo Huỳnh Văn M kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Ngày 13/8/2018 các bị cáo Trần Công H3,bị cáo Lê T10, bị cáo Nguyễn Văn H6, bị cáo Nguyễn Chí T8, bị cáo Bùi Ái Q, bị cáo Kiều Văn T6, bị cáo Trần Dương H2, bị cáo Huỳnh Văn M1, bị cáo Hồ Hoàng T9 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn Hđề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm xem xét lại hành vi phạm tội của bị cáo với Trầm Thế P1 về tội “Tổ chức đánh bạc” và xin giảm nhẹ hình phạt cả hai tội.

Các bị cáoHuỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1kháng cáoxin giảm nhẹ hình phạt

Các bị cáo Bùi Văn H4,Trần Công H3, Lê T10, Nguyễn Văn H6, Nguyễn Chí T8, Bùi Ái Q, Kiều Văn T6, Trần Dương H2, Hồ Hoàng T9vẫn nguyên kháng cáoxin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Y án sơ thẩm về phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Huỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1, Trần Dương H2, Trần Công H3, Bùi Ái Q, Kiều Văn T6, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Hồ Hoàng T9, Lê T10, Phạm Văn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Phạm Văn H là người được ông Đào Xuân T11 ủy quyền trông coi, quản lý khối tài sản, nhà kho trên diện tích 4.618 m2  đất. Sau đó H đã đồng ý cho Huỳnh Văn M vào trong khu vực kho hàng để M dựng chòi sử dụng cũng như chuẩn bị các công cụ phục vụ việc tổ chức đá gà, cá cược sát phạt bằng tiền. Trong công việc tổ chức sòng bạc trên Huỳnh Văn M phân công Huỳnh Văn M1 (T3) chịu trách nhiệm thông báo cách thức đá gà ra giá cá cược thu giữ, chi trả số tiền cá cược cùng với M. Ngày 27/01/2018 Công an huyện Bbắt quả tang, thu giữ số tiền dùng vào việc đánh bạc tại sòng đá gà là 73.310.000 đồng. Trong quá trình điều tra xác định được như sau: Huỳnh Văn M cá cược đá gà với Trần Thị  H9  500.000  đồng,  Phạm  Văn  H  cá  cược  đá  gà  với  Nguyễn  Chí  T8 5.000.000 đồng. Trần Công H3 sử dụng 21.200.000 đồng cá cược đá gà, Kiều Văn  T6 sử  dụng 15.750.000  đồng  cá  cược  đá gà,  Hồ  Hoàng  T9  sử dụng 1.500.000 đồng cá cược đá gà, Bùi Văn H4 cá cược đá gà 1.000.000 đồng. Nguyễn Văn H6 dùng 8.000.000 đồng cá cược đá gà, Nguyễn Chí T8 giúp H6 đặt cượcđồng thời tham gia cá cược đá gà 2.000.000 đồng, Bùi Ái Q cá cược đá gà 500.000đồng, Lê T10 cá cược đá gà 4.000.000 đồng, Trần Dương H2 cá cược đá gà 200.000 đồng vàđặt cược tại sòng lắc tài xỉu do Trầm Thế P1 làm cái 2.000.000 đồng.

Qua quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã chứng minh được ngày 27/01/2018, tổng số tiền mà những người tham gia đánh bạc đã và đang sử dụng để chơi đá gà là: 73.310.000 đồng (Bảy mươi triệu, ba trăm mười nghìn đồng); Tổng số tiền đã và đang sử dụng để chơi tài xỉu là 30.100.000 đồng (Ba mươi triệu một trăm nghìn đồng) và xác định tổng số tiền các bị cáo thu lợi bất chính là: 29.700.000 đồng, trong đó: Phạm Văn H thu lợi bất chính 10.950.000 đồng, Huỳnh Văn Mthu lợi bất chính 8.330.000 đồng, Huỳnh Văn M1 thu lợi bất chính 4.870.000 đồng.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Văn Hđề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét lại hành vi phạm tội của bị cáo với Trầm Thế P1 về tội “Tổ chức đánh bạc” và kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm bị cáo không khai báo đối với cơ quan tiến hành tố tụng về hành vi của bị cáo. Tòa sơ thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của bị cáo Trầm Thế P1 tại các Bản tự khai ngày 01/02/2018 (Bút lục 603), Bản tự khai ngày 06/02/2018 (Bút lục 604), Biên bản ghi lời khai ngày 01/02/2018(Bút lục 607;608; 609) để xác định bị cáo H là người gọi bị cáo P1 đến để lắc tài xỉu thuê cho H, nếu lời thì H sẽ trả cho P1 500.000 đồng/01 ngày, nếu hòa vốn hoặc thua thì P1 không lấy tiền. Ngoài ra P1 còn khai vào ngày 24/01/2018 bị cáo H có đưa cho P1 số tiền 10.000.000 đồng để làm tiền vốn lắc tài xỉu. Trong 04 ngày lắc tài xỉu thì P1 đã đưa cho H số tiền lời là 5.000.000 đồng và P1 có lấy tiền của bị cáo H 02 lần (Một lần 500.000 đồng, một lần 600.000 đồng. Tổng là 1.100.000 đồng) và chính bị cáo H là người thuê và trả tiền công cho Minh H7 và C2, mỗi người 200.000 đồng/01 ngày. Xét thấy, việc tổ chức lắc tài xỉu bắt đầu từ ngày 18/01/2018 nhưng ngày 24/01/2018 bị cáo H mới đưa tiền cho P1 10.000.000 đồng làm vốn, vậy từ ngày 19/01 đến ngày 23/01/2018 thì nguồn tiền lắc tài xỉu do ai bỏ ra? Tòa sơ thẩm chỉ căn cứ vào các lời khai trên khi chưa được đối chất, điều tra, xác minh làm rõ thời gian, địa điểm đưa tiền cũng như việc phân chia lợi nhuận là chưa đủ căn cứ vững chắc buộc tội bị cáo H về tội tổ chức đánh bạc với Trầm Thế P1. Tuy nhiên, căn cứ vào lời nhận tội của bịcáo H tại phiên tòa phúc thẩm thì phù hợp với các lời khai của bị cáo Châu Mộng C3 tại Biên bản ghi lời khai ngày 27/01/2018 (Bút lục 641), lời khai của bị  cáo Huỳnh Văn M tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 23/02/2018 (Bút lục654; 659) lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đào Xuân T11 đã khẳng định vào thời điểm các bị cáo cáo bị Công an huyện B bắt giữ về hành vi “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” thì bị cáo H vẫn đang là người quản lý phần đất cho ông Đào Xuân T11. Như vậy, lời nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa hoàn toàn trùng khớp và phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là căn cứ xác định bị cáo phạm tội “Tổ chức đánh bạc” với vai trò đồng phạm giúp sức.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử bị cáo Phạm Văn H về tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc” là có căn cứ nhưng tuyên phạt mức án 05 năm tùtội “Tổ chức đánh bạc” và 03 năm tù tội “Đánh bạc” buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 08 năm tù là nghiêm khắc đối với bị cáo.

Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H khai nhận hành vi phạm tội của mình về tội “Tổ chức đánh bạc” đã thể hiện bị cáo là người thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải cần áp dụng tình tiết này khi lượng hình cho bị cáo. Vì vậy, có căn cứ để chấp nhận một phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Văn H.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Huỳnh Văn M, Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo M là người chủ động xin phép bị cáo H để vào khu vực đất do bị cáo H quản lý để tổ chức việc đá gà, mục đích nhằm thu lợi bất chính. M đã xây dựng chòi, xới đá gà và chuẩn bị những vật dụng để phục vụ cho việc đá gà như: Cựa sắt, băng keo và nước suối. Bị cáo M còn đứng ra phân công M1 thông báo về cách thức đá gà, ra giá và thu giữ tiền cá cược, thuê C2 và T12 cảnh giới lực lượng chức năng để các những người khác thực hiện việc đánh bạc. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh tại địa phương. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo để nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và nhằm phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết tội phạm hoặc trong quá trình giảiquyết vụ án, được quy định tại các điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để áp dụng, xem xét mức hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo M không đưa ra thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo M.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Huỳnh Văn M1, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo đứng ra để thông báo về cách thức đá gà, ra giá và thu tiền cược đã cấu thành đồng phạm đối với bị cáo Huỳnh Văn M về tội “Tổ chức đánh bạc” với vai trò là người thực hành tích cực. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đế tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Người phạm tội thành khẩn khái báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, được quy định tại các điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để áp dụng, xem xét mức hình phạt đối với bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo M1 không đưa ra thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo M1.

[4] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn H6, Lê T10, Nguyễn Chí T8, Bùi Ái Q, Bùi Văn H4, Hồ Hoàng T9,Trần Công H3, Trần Dương H2, Kiều Văn T6 Hội đồng xét xử nhận định: Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố về hành vi đánh bạc theo điểm b, khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc giải quyết tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, được quy định tại các điểm s, t khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt các bị cáo mức án từ 03 năm đến 03 năm 03 tháng tù là chưa xem xét hết các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, chưa xem xét hoàn cảnh thực tế của các bị cáo, cũng như chưa phân hóa tội phạm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo đối với các bị cáo khác trong vụ án để cá thể hóa hình phạt nên phần quyết định hình phạt chưa đảm bảo sự thật khách quan của vụ án. Do vậy, để đảm bảo tính khách quan, tính công bằng trong xét xử, cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của các bị cáo,Đồng thời kiến nghị cấp giám đốc thẩm đối với Trầm Thế P1, Phạm Minh H7 là người tổ chức không được hưởng án treo theo Nghị quyết 02/2018 ngày 18/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Ngoài ra, trong quá trình xét xử Tòa án cấp sơ thẩm có sai sót như sau: Các bị cáo Nguyễn Văn H6, Lê T10, Nguyễn Chí T8, Bùi Ái Q, Bùi Văn H4, Hồ Hoàng T9, Trần Công H3, Trần Dương H2, Kiều Văn T6 đã bị Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố về tội “Đánh bạc” được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, nhưng Tại phần quyết định của Bản án sơ thẩm có sự sai sót khi áp dụng Điều 322 tội “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” để áp dụng đối với các bị cáo nói trên là chưa đúng. Vì vậy, cần sửa Bản án sơ thẩm về phần áp dụng điều luật đối với các bị cáo nói trên.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phù hợp một phần với nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm:

- Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo: Huỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1, phải chịu theo quy định của pháp luật

- Các bị cáo Phạm Văn H, Trần Công H3, Kiều Văn T6, Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2không phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo củacác bị cáo Huỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1,

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước về phần hình phạt đối với các bị cáo Huỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt về tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” của bị cáo Phạm Văn H.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của các bị cáo Trần Công H3, Kiều Văn T6, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2,Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4,

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2018/HSST ngày 07/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước về phần điều luật áp dụng và hình phạt đối với Phạm Văn H, Trần Công H3, Kiều Văn T6, Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2.

Về tội danh:

Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Văn Hphạm tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”

Bị cáo Huỳnh Văn M phạm tội “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc”. Bị cáo Huỳnh Văn M1phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Các bị cáo Trần Công H3, Kiều Văn T6, Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2phạm tội “Đánh bạc”.

Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321 điểm b, d khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 7, Điều 17, 38, 54, 58, Điều 55 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Phạm Văn H 02 (Hai) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” và 03(Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của cả 02 tội là 05 (Năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2018. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụngđiểm b khoản 2 Điều 321 điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 55, 17, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Huỳnh Văn M 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”, 01 (Một) năm06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội là 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù, được trừ đi thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/02/2018 đến ngày 08/6/2018, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 17, 58 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Huỳnh Văn M1 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, được trừ đi thời giam bị cáo bị tạm giam từ ngày 31/01/2018 đến ngày 01/6/2018; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 321; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; 17; 58; 65 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt Nguyễn Văn H6 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạt Lê T10 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạt Nguyễn Chí T8 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạt Bùi Ái Q 03 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạtBùi Văn H403 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạtHồ Hoàng T903 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạtTrần Công H303 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạtTrần Dương H203 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Xử phạtKiều Văn T603 (Ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 25/01/2019.

Giao các bị cáo Nguyễn Văn H6, Trần Dương H2, Kiều Văn T6, Nguyễn Chí T8, Lê T10, Bùi Ái Q cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Trần Công H3 cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B,tỉnh BìnhPhước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Hồ Hoàng T9 cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện L,tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Bùi Văn H4 cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B,tỉnh Bình Phước giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều69 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3] Kiến nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xem xét theo trình tự giám đốc thẩm hủy một phần bản án Hình sự sơ thẩm số43/2018/HSST  ngày  07/8/2018  của  Tòa  án  nhân  dân  huyện  B,  tỉnh  BìnhPhướcđối với Trầm Thế P1, Phạm Minh H7 theo hướng không cho hưởng ántreo.

 [4] Án phí hình sự phúc thẩm:

- Các bị cáo Huỳnh Văn M, Huỳnh Văn M1. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Các bị cáo Phạm Văn H,Trần Công H3, Kiều Văn T6, Hồ Hoàng T9, Bùi Văn H4, Nguyễn Chí T8, Nguyễn Văn H6, Bùi Ái Q, Lê T10, Trần Dương H2 không phải chịu.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

506
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2019/HS-PT ngày 25/01/2019 về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc

Số hiệu:13/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về