Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THÁI HÒA, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2018 VỀ LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 138/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2018 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/11/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Mai Thị V - Sinh năm 1986.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khối T, phường H, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An.

Chỗ ở hiện nay: xóm T, xã A, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh H - Sinh năm 1980.

Trú tại: Khối T, phường H, thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An.

Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 15 tháng 8 năm 2018 và quá trình giải quyết xét xử tại Tòa án nguyên đơn chị Mai Thị V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Nguyễn Minh H kết hôn với nhau vào ngày 09 tháng 09 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân được xác lập trên cơ sở bình đẳng tự nguyện. Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 05 năm thì nảy sinh mâu thuẫn do quan điểm sống không phù hợp, thường xuyên cãi cọ lẫn nhau vì vấn đề kinh tế, cụ thể anh H đi làm không khi nào đưa tiền về nuôi con. Đến tháng 8 năm 2018 mâu thuẫn trầm trọng, anh H không chăm lo làm ăn về nhà còn đánh đập chị V, đập phá đồ đạc trong nhà, chặt quần áo của chị V và khóa cửa nhà không cho chị V vào ở nên chị cùng con gái là Nguyễn Mai Minh T về sinh sống trong nhà bố mẹ đẻ tại xóm T, xã A, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn chị V thấy không thể sống chung với anh H được nữa và mong muốn được ly hôn với anh H.

- Về việc nuôi con chung: Chị V trình bày vợ chồng có 02 (hai) con chung là Nguyễn Mai Minh T, sinh ngày 10/3/2012 và Nguyễn Mai Minh B, sinh ngày 02/9/2014. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh T.

Giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh B. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản: chị V trình bày vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh H đã được tống đạt trực tiếp thông báo thụ lý vụ án nhưng anh H không nhận và trong quá trình giải quyết vụ án tiếp theo mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn anh Nguyễn Minh H không có mặt, không có lý do.

Ý kiến của đại diện viện kiểm sát: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đúng quy định của pháp luật.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi nộp đơn, thụ lý vụ án cho đến khi xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn đã được tòa án tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có mặt tham gia giải quyết vụ án và đã được tống đạt hợp lệ phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 19, điều 51, khoản 1, điều 56, điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Mai Thị V cho chị V được ly hôn anh Nguyễn Minh H.

Về con chung: Giao cho chị Mai Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng một con chung là cháu Nguyễn Mai Minh T và giao cho anh Nguyễn Minh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng một con chung là Nguyễn Mai Minh B. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho bên nào.

Về tài sản: không xem xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án anh H đã được tống đạt trực tiếp thông báo thụ lý vụ án nhưng anh H không nhận và quá trình giải quyết vụ án tiếp theo Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ cho anh Nguyễn Minh H nhưng anh H vẫn không có mặt, nên theo quy định tại điều 227 - BLTTDS Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án công khai vắng mặt anh H là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Thấy rằng hôn nhân giữa chị Mai Thị V và anh Nguyễn Minh H là tự nguyện, hợp pháp có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, Huyện Quỳnh Lưu vào ngày 09 tháng 9 năm 2010. Tuy nhiên cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do quan điểm sống không phù hợp, đặc biệt từ tháng 8 năm 2018 do vợ chồng cãi cọ nhau thì anh H đánh đập chị V, khóa cửa nhà không cho chị V vào ở nên chị V về nhà bố mẹ đẻ ở huyện Quỳnh Lưu sống và vợ chồng sống ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa, mỗi người sống một nơi, hiện nay anh H bỏ đi làm ăn sinh sống ở đâu chị V cũng không biết. Nay xét thấy tình trạng vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu của chị V, cho chị V được ly hôn anh H là phù hợp.

[3] Về nuôi con: Xét thấy chị V trình bày vợ chồng có 02 (hai) con chung là Nguyễn Mai Minh T, sinh ngày 10/3/2012 và Nguyễn Mai Minh B, sinh ngày 02/9/2014. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh T và giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh B và chị V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là phù hợp nên cần chấp nhận yêu cầu của chị V. Giao cho chị Mai Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh T và giao cho anh Nguyễn Minh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh B. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho bên nào.

[4] Về tài sản: Chị V không yêu cầu giải quyết về tài sản nên Tòa miễn xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Về tình cảm: Áp dụng các điều 51; Khoản 1 điều 56; Điều 81 - Luật Hôn nhân và gia đình xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Mai Thị V, cho chị Mai Thị V được ly hôn anh Nguyễn Minh H.

- Về nuôi con: Giao cho chị Mai Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh T sinh ngày 10/3/2012 và giao cho anh Nguyễn Minh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Minh B sinh ngày 02/9/2014. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho bên nào.

- Về án phí: Áp dụng điều 147 - Bộ luật Tố tụng Dân sựNghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc chị Mai Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Đã nộp đủ theo biên lai số 0000405 ngày 20 tháng 8 năm 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự Thị xã Thái Hòa.

- Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Mai Thị V có mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ an trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Minh H vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

501
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 28/11/2018 về ly hôn

Số hiệu:13/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Thái Hòa - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về