Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN GIỮA ANH L VÀ CHỊ Đ

Ngày 26 tháng 01 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 423/2017/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2017/QĐXX-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phạm Hoàng L, sinh năm 1990 (Có mặt);

Địa chỉ: Số nhà 179, Khu 8, thị trấn Cần Đước, huyện Cần Đước, tỉnh Long An;

Bị đơn: Chị Trà Thị Ngọc Đ, sinh năm 1990 (Vắng mặt không lý do);

Địa chỉ: Ấp 7, xã Phước Tuy, huyện Cần Đước, tỉnh Long An;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 12/9/2017 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn anhPhạm Hoàng L trình bày:

Anh và chị Đ quen biết, tự nguyện tìm hiểu khoảng 01 năm thì tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Cần Đước, huyện Cần Đước, tỉnh Long An năm 2015. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng về sinh sống bên nhà cha mẹ ruột của anh được gần 01 tuần thì chị Đ xin về nhà cha mẹ ruột chơi rồi không trở lại nhà chồng nữa. Anh và cha mẹ của anh có đến rước 02 lần nhưng chị Đ không về và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay; bản thân anh cũng không biết lý do chị Đ bỏ đi vì vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Sau khi gửi đơn xin ly hôn, anh có đến thăm con và gặp chị Đ để nói chuyện hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được, mà ngược lại giữa anh và em vợ có mâu thuẫn với nhau.

Nay tình cảm vợ chồng đã đổ vỡ, không thể hàn gắn và anh không còn tình nghĩa gì với chị Đ nên anh yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đ.

Về con chung: Anh và chị Đ có 01 người con chung tên Phạm Ngọc Trâm A, sinh ngày 27/8/2016, chị Đ đang là người trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, anh đồng ý giao con cho chị Đ được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và không cấp dưỡng cho con.

Về chia tài sản, nợ chung: Không có tài sản chung; không có nợ chung.

Bị đơn chị Đ vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến về việc giải quyết vụán.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa anh Phạm Hoàng L với chị Trà Thị Ngọc Đ là tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại các Điều 28, 35 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Chị Trà Thị Ngọc Đ đã được Tòa án tống đạt các Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toàn và các Thông báo phiên tòa theo quyđịnh của pháp luật tố tụng, nhưng chị Đ vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xử vắng mặt chị Đ.

[3] Về nội dung: Căn cứ lời trình bày của anh L; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa; đối chiếu với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai, khách quan tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[4] Về hôn nhân: Anh Phạm Hoàng L và chị Trà Thị Ngọc Đ xác lập quan hệ hôn nhân, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Cần Đước, huyện Cần Đước, tỉnh Long An ngày 25/12/2015 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 119/2015, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh L và chị Đ sinh sống cùng gia đình cha mẹ của anh L gần 01 tuần thì chị Đ bỏ về nhà cha mẹ ruột của chị Đ sinh sống; anh L và chị Đ ly thân luôn từ đó. Anh L cùng cha mẹ của anh L có đến rước 02 lần nhưng chị Đ không đồng ý quay về chung sống cùng anh L.

[5] Theo lời trình bày của anh L, giữa hai vợ chồng không xảy ra mâu thuẫn. Đời sống chung của vợ chồng chỉ kéo dài trong khoảng gần 01 tuần thì chị Đ bỏ về nhà cha mẹ ruột của chị Đ sinh sống không rõ lý do. Anh L cùng cha mẹ ruột đã 02 lần đến rước chị Đ về nhưng chị Đ không đồng ý. Sau khi nộp đơn xin ly hôn, anh L có đến gặp chị Đ để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Tòa án đã tiến hành tống đạt các Thông báo, Quyết định của Tòa án về việc giải quyết vụ án nhưng chị Đ không có ý kiến thể hiện quan điểm; không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân của anh L và chị Đ không thể hàn gắn được, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh L, anh L được ly hôn với chị Đ.

[6] Về nuôi con chung: Anh Phạm Hoàng L và chị Trà Thị Ngọc Đ có 01 người con chung tên Phạm Ngọc Trâm A, sinh ngày 27/8/2016, chị Đ đang là người nuôi con. Sau khi khi ly hôn, anh L đồng ý giao con cho chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc. Hội đồng xét xử xét thấy giao người con chung Phạm Ngọc Trâm A cho chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, nguyện vọng của anh L, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của người con theo quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận để chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

[7] Về cấp dưỡng cho con: Cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình, nhưng quá trình giải quyết vụ án, chị Đ chưa có ý kiến về việc cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con, quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi yêu cầu cấp dưỡng hoặc mức cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. [8] Chia tài sản chung và nợ chung: Anh L trình bày không có nợ chung, không có tài sản chung; chị Đ không có ý kiến về chia tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, không đề cập.

[9] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Phạm Hoàng L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng các điều 35, 147, 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh Phạm Hoàng L, anh L được ly hôn với chị Trà Thị Ngọc Đ.

Về nuôi con chung: Giao người con tên Phạm Ngọc Trâm A, sinh ngày 27/8/2016 cho chị Trà Thị Ngọc Đ tiếp tục nuôi dưỡng. Cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình, nhưng chị Đ chưa có ý kiến yêu cầu anh L cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét. Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi íchcủa con, quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi yêu cầu cấp dưỡng hoặc mức cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về án phí: Anh Phạm Hoàng L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0000346 ngày 27/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Đước, tỉnh Long An, anh L đã nộp đủ.
Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt nguyên đơn anh Phạm Hoàng L, báo cho anh L biết được quyền kháng cáo bản án trong trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn chị Trà Thị Ngọc Đ vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 26/01/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:13/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về