TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 24/10/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Hôm nay, ngày 24 tháng 10 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 13/2017/HSST ngày 02 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2017/HSST-QĐXX ngày 12/10/2017 đối với bị cáo:
Đinh Văn Th (tên gọi khác: Th râu), sinh ngày 28/12/1984 tại huyện S.
Trú tại thôn K, xã S, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Nghề nghiệp: Nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Hre; Tôn Giáo: Không.
Trình độ học vấn: 3/12.
Con ông Đinh Ch (đã chết) và bà Đinh Thị Th, sinh năm 1942.
Vợ: Bà Đinh Thị H, sinh năm 1983; có 02 con, lớn nhất 11 tuổi, nhỏ nhất 07 tuổi.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt tạm giam từ ngày 10/10/2017 đến nay. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Đinh Văn Th là bà Võ Thị H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
Người bị hại: Ông Đinh Văn Ch, sinh năm 1987.
Trú tại tổ dân phố L, thị trấn D, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà NLQ, sinh năm 1981. Trú tại tổ dân phố L, thị trấn D, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.
Người phiên dịch: Ông Đinh Công B - Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã S. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 29/3/2017, Đinh Văn Th đi ngang qua quán của bà NLC1 ở khu vực bờ kè, thị trấn D thì có ông Đinh Văn Ch đang ngồi uống bia một mình gọi Th vào quán, Th đi vào quán ngồi uống chung với ông Ch được một ly bia thì Th ra về. Sau khi Th về thì có ông NLC2 đến và ngồi nhậu cùng ông Ch. Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày Th tiếp tục quay lại quán của bà NLC1. Khi vàoquán, Th qua bàn nhậu của ông NLC3 mời bia. Sau đó, Th tiếp tục qua bàn bên cạnh để mời bia thì ông Ch đi theo Th với thái độ lè nhè. Thấy vậy, Th nói với ông Ch "Ch đừng có làm vậy, toàn chỗ anh em, nếu không tao đánh đó", ông Ch đáp lại Th "đánh đi". Lúc này, sẵn cầm ly bia bên tay phải, Th đập vòng ngang trúng vào vùng mắt tráicủa ông Ch làm cho ông Ch gục xuống bàn, Th định tiếp tục đánh ông Ch thì được mọi người can ngăn. Sau khi được mọi người can ngăn, Th nói với mọi người "nếu
Công an đến thì nói thằng Th đánh" rồi Th bỏ đi. Còn ông Ch được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện S sau đó chuyển điều trị tại Bênh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi đến ngày 05/4/2017 thì ra viện.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 49/2017/GĐPY ngày07/4/2017 của Phòng giám định pháp y - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại của ông Đinh Văn Ch là15%.
Bản Cáo trạng số: 14/QĐ-VKS ngày 28/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo Đinh Văn Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bảnCáo trạng đã nêu.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản
Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1Điều 46 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đinh Văn Th từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu, tiêu hủy 15 mảnh vỡ thủy tinh có kích thước lớn nhỏkhác nhau, có bám dính chất màu nâu đỏ, trong đó mảnh vỡ lớn nhất có kích thước (9x5,5)cm, mảnh vỡ nhỏ nhất có kích thước (3x1)cm và 01 mảnh giấy có dính chất màu nâu đỏ.
- Về dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586 và Điều 590 Bộ luật dân sự, tuyên buộc bị cáo Đinh Văn Th bồi thường cho ông Đinh Văn Ch 17.060.000 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo và bị cáo nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát truy tố bị cáo Đinh Văn Th về tội "Cố ý gây thương tích" theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Người bị hại nhất trí với ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Tòa án xét xử đúng pháp luật.
Lời nói sau cùng của bị cáo là xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
- Ngay sau khi có tin báo về tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền điều tra, thời hạn điều tra, lấy lời khai người vi phạm, hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, người làm chứng..., thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký ghi biên bản phiên tòa cũng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tại phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng . Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
- Do có mâu thuẫn trong lúc uống bia nên khoảng 17 giờ 00 phút ngày 29/3/2017, bị cáo Đinh Văn Th đã cầm ly thủy tinh có quai đập vào vùng mắt trái của ông Đinh Văn Ch, hậu quả làm cho ông Ch bị thương tích 15% sức khỏe. Như vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy, bị cáo Đinh Văn Th là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức việc dùng ly thủy tinh là hung khí nguy hiểm đánh người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Với những hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Nay, Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố bị cáo Đinh Văn Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Những lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có tại hồsơ và được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đinh Văn Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự.
Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhưng bị cáo đã dùng hung khí gây thương tích cho người khác, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác mà pháp luật bảo vệ nên cần phải xử lý nghiêm.
- Bị cáo không có tiền án, tiền sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiêntòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo thuộc hộ nghèo, có con còn nhỏ. Đây là tìnhtiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luậthình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vào năm2009, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện S xét xử 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng đạo đức trở thành công dân có ích cho xã hội, nay bị cáo tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù một thời gian mới đủ tính răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1, 2 Điều 46 và Điều 33 Bộ luật hình sự và áp dụng những tình tiết, điều khoản có lợi cho bị cáo, vì bị cáo đã thành khẩn khai báo; thuộc hộ nghèo, có con còn nhỏ nên đề nghị xem xét giảm nhẹ và xử phạt tù bị cáo với mức thấp nhất của khung hình phạt, đề nghị của người bào chữa được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về dân sự: Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với yêu cầu của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát.
- Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu, tiêu hủy 15 mảnh vỡ thủy tinh có kích thước lớn nhỏ khác nhau, có bám dính chất màu nâu đỏ, trong đó mảnh vỡ lớn nhất có kích thước (9x5,5)cm, mảnh vỡ nhỏ nhất có kích thước (3x1)cm và 01 mảnh giấy có dính chất màu nâu đỏ là có căn cứ.
- Về phần dân sự: Ông Đinh Văn Ch yêu cầu bị cáo Đinh Văn Th phải bồi thường số tiền 15.140.000 đồng và bà NLQ yêu cầu bị cáo Đinh Văn Th phải bồi thường số tiền 1.920.000 đồng là có căn cứ và bị cáo cũng đồng ý.
- Về án phí: Bị cáo Đinh Văn Th thuộc hộ nghèo nên được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đinh Văn Th phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm p khoản 1 Điều 46 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáoĐinh Văn Th 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2017.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu, tiêu hủy 15 (Mười lăm) mảnh vỡ thủy tinh có kích thước lớn nhỏ khác nhau, có bám dính chất màu nâu đỏ, trong đó mảnh vỡ lớn nhất có kích thước (9x5,5)cm, mảnh vỡ nhỏ nhất có kích thước (3x1)cm và 01 mảnh giấy có dính chất màu nâu đỏ (Phản ảnh tại biên biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20/10/2017 giữa Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).
Về dân sự: Áp dụng Điều 42 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 584, Điều 585 và Điều 590 Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Đinh Văn Th phải bồi thường cho ông Đinh Văn Ch số tiền 15.140.000 đồng (Mười lăm triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) và bồi thường cho bà NLQ số tiền 1.920.000 đồng (Một triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).
Bị cáo Đinh Văn Th được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong số tiền trên, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy đinh tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2017/HSST ngày 24/10/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 13/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Hà - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về