TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 13/2017/HSST NGÀY 14/04/2017 VỀ TỘ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 14 tháng 4 năm 2017, Tòa án nhân dân huyện Đông Hải tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 09/2017/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2017, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn A, sinh năm 1982. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: ấp M, xã N, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. Trình độ học vấn: 5/12. Nghề nghiệp: làm vuông. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Con ông B, sinh năm 1958 và bà C, sinh năm 1958. Vợ: Nguyễn D, sinh năm 1987; có 02 người con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt truy nã và tạm giam từ ngày 25/11/2016 đến ngày 07/01/2017, cho tại ngoại đến nay.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo Nguyễn A là ông Trần Minh Thư, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bạc Liêu.
* Bị hại: ông E, sinh năm 1961.
Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: ấp M, xã N, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại ông E là ông Lý Kim Phước – Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bạc Liêu.
(Bị cáo, bị hại; Người bào chữa cho bị cáo, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại có mặt tại phiên tòa)
NHẬN THẤY
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu đã truy tố bị cáo Nguyễn A về hành vi phạm tội như sau: vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 03/7/2015, tại nhà ông E thuộc ấp M, xã N, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu, bị cáo Nguyễn A cùng với các đồng phạm đã có hành vi dùng ống tuýp bằng kim loại và búa đánh, chém ông E gây thương tật 15%.
Tại Cáo trạng số 10/CTr-TA ngày 15 tháng 02 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải đã truy tố bị cáo Nguyễn A về tội “Cố ý gây thương tích” theo qui định tại khoản 2 (thuộc các điểm a, i khoản 1) Điều 104 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà có quan điểm không thay đổi so với bản Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Nhưng cần xem xét gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo là lao động chính, vai trò giúp sức, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ những phân tích trên nên cho bị cáo mức án tù có điều kiện và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng khoản 2 (thuộc các điểm a, i khoản 1) Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 và các Điều 20, 53 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn A mức án từ 12 đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 36 tháng.
- Về vật chứng của vụ án: đã đề cập xử lý trong Bản án số 32/2016/HSST ngày 23/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải nên không đặt ra giải quyết.
- Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã bồi thường cho ông E số tiền 10.000.000 đồng, ông E không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên không đặt ra giải quyết.
* Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn A thống nhất Cáo trạng truy tố đối với bị cáo và cho rằng bị cáo A xuất thân từ thành phần lao động, nhận thức pháp luật còn hạn chế, gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, có con bị khuyết tật, vợ bị bệnh thận; trong vụ án này bị cáo chỉ tham gia cùng đi, không gây thương tích cho ông E; bị cáo đã có thiện chí bồi thường khắc phục hậu quả cho ông E; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu trong trường hợp ít nghiêm trọng, bị hại cũng xin giảm nhẹ cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án tù có điều kiện.
* Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại E thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, nhưng cũng xem xét hoàn cảnh cho bị cáo nếu đủ điều kiện thì cho bị cáo mức án tù có điều kiện. Đối với bị hại không yêu cầu gì thêm về phần trách nhiệm dân sự, nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận không đặt ra giải quyết.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo A, bị hại, người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn A đều thừa nhận: vào ngày 03/7/2015, tại nhà của bị án Nguyễn Minh G tổ chức uống rượu gồm có bị cáo Nguyễn A; các bị án Nguyễn Minh G, Lê Tấn H; đối tượng Nguyễn Văn I và đối tượng M (không biết rõ họ tên). Trong lúc uống rượu, bị án G nhắc lại chuyện con ông E nhiều lần đến nhà G gây chuyện với bị án G, nên bị án G rủ cả nhóm cùng đi đến nhà ông E tại ấp M, xã N, huyện Đông Hải để đánh cha con ông E trả thù, bị cáo A cùng cả nhóm đều đồng ý. Khi đi bị án G điều khiển xe mô tô 94B1-048.66 chở bị cáo A, đối tượng I điều khiển xe mô tô 94D1-156.10 chạy một mình, còn bị án Lê Tấn H điều khiển xe mô tô (không rõ biển kiểm soát) chở đối tượng tên M. Bị án G mang theo ống tuýp bằng kim loại đưa cho bị cáo A cầm, còn đối tượng M cầm theo một cây búa. Khi cả nhóm đi hết lộ đal đường vào nhà ông E thì đậu xe lại và cùng đi bộ đến nhà ông E, thì bị cáo A đưa ống tuýp lại cho bị án G cầm. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi cả nhóm đến nhà ông E, bị cáo A đứng trước sân, còn bị án H, G và đối tượng I, M cùng đi vào nhà ông E.
Bị hại ông E cho rằng đối tượng I kêu ông E ra nói chuyện, ông E vừa đi ra đến cửa nhà trước thì bị án H và người tên M cùng xông vào đánh ông E, đối tượng M cầm búa chém thì ông E đưa tay trái đỡ làm gãy tay; bị án G xông vào dùng ống tuýp đánh nên ông E đưa tay phải lên đỡ làm gãy tay; đối tượng I dùng nón bảo hiểm đang đội đánh trúng vào đầu làm ông E ngã xuống đất thì cả nhóm xông vào dùng chân đạp ông E đến bất tỉnh. Lúc này, con dâu ông E là Thạch Thị Y can ngăn và truy hô nên cả nhóm không đánh ông E nữa mà cùng với bị cáo A bỏ đi về.
Hành vi của bị cáo Nguyễn A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị án và đối tượng Bình, những người có liên quan, Biên bản khám nghiệm hiện trường và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy chỉ vì những mâu thuẫn do con ông E và bị án G, mà bị án G sau khi uống rượu đã kêu bị án H, bị cáo A và 02 đối tượng I và M cùng nhau đi đến nhà ông E, đánh ông E gây thương tích.
Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 144/TgT ngày 01/9/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Bạc Liêu kết luận thương tích của ông E dấu hiệu chính qua giám định gồm:
+ Mổ để kết hợp xương trụ tay phải bằng nẹp vis, tỷ lệ: 10%. Vật gây thương tích do vật tầy;
+ Gãy 1/3 xương trụ tay trái, can tốt, tỷ lệ: 06%. Vật gây thương tích do vật sắc.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 15%
Từ đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn A nêu trên đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải truy tố bị cáo Nguyễn A là hoàn toàn đúng người, đúng tội.
Xét tính chất, hành vi phạm tội: bị cáo Nguyễn A là người đã thành niên, có đủ năng lực hành vi, bản thân bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng khi được bị án G rủ đi đánh cha con ông E để trả thù thì bị cáo cùng các bị án Nguyễn Minh G, Lê Tấn H, đối tượng Nguyễn Văn I và người tên M thống nhất cùng nhau đi đến nhà ông E không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể cho người nào. Vụ án này đồng bọn bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm, gây thương tích hậu quả để lại cho ông E bị gãy 1/3 xương trụ tay trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với ông E là 15%; mặc dù bị cáo không trực tiếp đánh ông E, không gây thương tích cho ông E, nhưng bị cáo đã tiếp nhận ý chí của các bị án và các đối tượng để cùng đi đánh cha con ông E là góp phần tích cực trong việc cổ vũ tinh thần cho các bị án khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nên bị cáo cũng phải chịu trách nhiệm với vai trò là đồng phạm. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo A đã bỏ trốn và bị truy nã đến ngày 25/11/2016 thì bị bắt, cho thấy bị cáo đã xem thường pháp luật cũng như tính mạng, sức khỏe của người khác, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng điều tra làm rõ xử lý vụ án. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những gây mất trật tự trị an tại địa phương mà còn tạo tâm lý bất ổn cho người dân, ý thức chấp hành pháp luật kém. Do đó, cần có mức án tù tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Đối với Nguyễn Minh G và Lê Tấn H đã được đưa ra xét xử theo Bản án số 32/2016/HSST ngày 23/9/2016 và Bản án số 03/2017/HSST ngày 19/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải đã có hiệu lực pháp luật nên không đặt ra xem xét lại.
Đối với đối tượng Nguyễn Văn I, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn và bị truy nã nên khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Đối với đối tượng tên M do chưa xác định được họ, tên, địa chỉ cụ thể nên chưa đủ căn cứ để xử lý, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh xử lý theo quy định pháp luật.
Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên Tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại, bị hại cũng yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đồng thời Hội đồng xét xử xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo cũng khó khăn, nên khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự.
Ý kiến người bào chữa cho bị cáo A cho rằng bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là chưa phù hợp quy định pháp luật. Ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại và bị hại đề nghị cho bị cáo được hưởng hình phạt tù có điều kiện là chưa phù hợp quy định pháp luật; hơn nữa tình hình tội phạm ngày càng xảy ra nhiều hơn, tính chất côn đồ, mặc dù trong vụ án này bị cáo A chỉ tham gia với vai trò giúp sức nhưng việc giúp sức của bị cáo đã làm cho các đồng phạm khác quyết tâm hơn trong việc thực hiện hành vi phạm tội; vì thế Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến đề nghị cho bị cáo được hưởng hình phạt tù có điều kiện.
Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt mà điều luật quy định là nhằm răn đe, giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung cho xã hội và cũng thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.
Về vật chứng trong vụ án: đã đề cập xử lý trong Bản án số 32/2016/HSST ngày 23/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xong nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Về trách nhiệm dân sự: gia đình bị cáo A đã thỏa thuận bồi thường cho ông E số tiền 10.000.000 đồng, ông E đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu gì thêm, Hội đồng xét xử ghi nhận, không đặt ra giải quyết trong vụ án.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn A thuộc diện hộ nghèo theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 2 (điểm a, i khoản 1) Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 và các Điều 20, 33, 53 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Xử phạt bị cáo Nguyễn A 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2016 đến ngày 07/01/2017.
2. Về vật chứng trong vụ án: đã được xử lý trong Bản án số 32/2016/HSST ngày 23/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xong, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Án xử sơ thẩm, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 13/2017/HSST ngày 14/04/2017 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 13/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/04/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về