Bản án 13/2017/HNGĐ-ST ngày 11/05/2017 về hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 13/2017/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2017 VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 11 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 23/2017/HNGĐ - ST ngày 22 tháng 2 năm 2017 về việc: Hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1980.

Nơi ĐKHKTT: xóm Kim Thịnh, xã C Đ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Chỗ ở hiện nay: khu 7, xóm Khang, xã T T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. (có mặt).

Bị đơn: Anh Phùng Văn T, sinh năm 1978.

Nơi ĐKHKTT: xóm Kim Thịnh, xã C Đ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. ( Vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện (đơn xin ly hôn) và các lời khai tiếp theo tại Tòa án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Chị L và anh Phùng Văn T kết hôn ngày 13/10/2003 được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống và làm nông nghiệp tại xóm Kim Thịnh, xã C Đ, huyện Thanh Sơn.

Về tình cảm: vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do tình cảm vợ chồng không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cãi cọ nhau, anh T thường uống rượu say chửi bới đánh đập chị L, chị L không chịu đựng được cuộc sống chung vợ chồng đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xã T T từ năm 2006, anh chị sống ly thân từ đó đến nay không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn và yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với Phùng Văn T.

Về con chung: Chị L xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Phùng Văn K, sinh ngày 21/8/2004, hiện cháu đang ở cùng với chị L. Nay ly hôn chị L có nguyện vọng xin được nuôi cháu K đến lúc trưởng thành, lao động tự túc được, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung; công nợ chung: Chị L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung, chị L không đề nghị gì về tư trang riêng và công sức đóng góp.

Phía bị đơn anh Phùng Văn T vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, tại biên bản lấy lời khai và hòa giải anh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T thừa nhận về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, nơi đăng ký kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày là đúng. Nay anh T cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa và nhất trí ly hôn như yêu cầu của chị Trần Thị L.

Về con chung: anh T xác nhận vợ chồng có 01 con chung như chị L trình bày là đúng. Nay ly hôn anh T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu K đến lúc trưởng thành và yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung; công nợ chung: Anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung.

Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay HĐXX thực hiện đúng quy định của pháp luật không có vi phạm gì.

Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như không đến Tòa án theo Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải.

Về nội dung vụ án: Chị L và anh T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên anh chị tự nguyện, thống nhất xin được ly hôn nên cho chị L được ly hôn anh T.

Về con chung: Giao cho chị Trần Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phùng Văn K, sinh ngày 21/8/2004 kể từ ngày 11/5/2017 đến khi cháu trưởng thành, lao động tự túc được chị Loan tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung không ai được ngăn cấm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, hội đồng xét xử nhận định.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Phùng Văn T đăng ký kết hôn ngày 13/10/2003 tại UBND xã T T, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Trước khi kết hôn được tìm hiểu tự nguyện không ai bị ép buộc. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về tình cảm vợ chồng: Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng chị L và anh T chung sống hạnh phúc nhưng được vài ba năm thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên sảy ra cãi vã, anh T thường uống rượu say đánh đập chị L. Năm 2006 do không chịu được chị L bế con về nhà bố mẹ đẻ ở, anh chị sống ly thân từ đó đến nay không ai còn quan tâm đến nhau nữa.Trong quá trình giải quyết vụ án chị L và anh T đều xác định không còn tình cảm với nhau và xin được tự nguyện ly hôn để giải phóng cho nhau ổn định cuộc sống. HĐXX xét thấy cuộc sống hôn nhân của chị L và anh T không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, thực tế hôn nhân của anh chị không còn tồn tại. Vì vậy cần xử cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Phùng Văn T là phù hợp với Điều 56 - Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Chị L và anh T xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Phùng Văn K, sinh ngày 21/8/2004, hiện cháu đang ở cùng với chị L. Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên toà hôm nay chị L và anh T đều có nguyện vọng xin được nuôi cháu K đến lúc trưởng thành, lao động tự túc được. HĐXX nhận thấy nguyện vọng xin nuôi con của anh T và chị L là hoàn toàn chính đáng, xét về điều kiện kinh tế chị L và anh T đều làm nông nghiệp, điều kiên kinh tế như nhau, xét về thực tế thì cháu K đã ở cùng với chị L từ khi vợ chồng sống ly thân năm 2006 cháu K được chị chăm sóc, nuôi dưỡng cho ăn học đầy đủ, và tại bản tự ngày 15/3/2017 cháu K có nguyện vọng ở với chị L. HĐXX nhận thấy cần giao cháu K cho chị L chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ ngày 11/5/2017 đến khi cháu K trưởng thành, lao động tự túc được là phù hợp với pháp luật, chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; về công nợ chung:Chị L, anh T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có công nợ chung. Nên HĐXX không xem xét.

Về án phí: Chị L phải nộp toàn bộ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điều 56; Điều 81; Điều 82 - Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 điều 273 - Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 25 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Xử: Cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Phùng Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phùng Văn K, sinh ngày 21/8/2004 kể từ ngày 11/5/2017 đến khi cháu trưởng thành, lao động tự túc được, chị L tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị L đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2016/0000164 ngày 22/2/2017 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn.

Chị L có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, anh T vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi anh T cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

691
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 13/2017/HNGĐ-ST ngày 11/05/2017 về hôn nhân và gia đình

Số hiệu:13/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về