Bản án 131/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 131/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 129/2019/TLHS-HS ngày 17 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 137/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1987 tại Hà Nam; nơi cư trú: Tổ 10, phường H, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Đặng Thị H; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 05/7/2019 và chuyển tạm giam từ ngày 11/7/2019 đến nay; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị B, sinh năm 1969; Trú tại: Thôn 3 T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; Vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Ông Trương Công Đ, sinh năm 1964; Vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1963; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 05/7/2019, Nguyễn Mạnh T điều khiển xe mô tô BKS: 90B1-378.53 đi từ nhà đến Sân vận động thành phố P thì gặp bạn mới quen tên là T1 khoảng 35 tuổi (T không rõ nhân thân, lai lịch). T1 nói với T: “Đi với tao ra đây lấy hàng” (T hiểu T1 rủ đi mua ma túy về sử dụng) nên đồng ý và giao xe mô tô cho T1 điều khiển chở T đến đoạn đường thuộc tổ 13, phường T, thành phố P. T1 bảo T “Đứng đây đợi tao đi lấy hàng” rồi điều khiển xe mô tô đi, một lúc sau quay lại đưa cho T 01 gói giấy bạc màu vàng, biết bên trong có gói ma túy nên T cất vào túi quần bên trái phía trước đang mặc rồi ngồi lên phía sau xe mô tô để T1 điều khiển chở đi tìm chỗ sử dụng, khi đi được một đoạn thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe để kiểm tra, T1 dừng xe bỏ chạy. T bị lực lượng Công an giữ lại và tự giác giao nộp 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là gói ma túy T cất giữ để sử dụng. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Mạnh T, thu giữ vật chứng gồm:

- 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong gói có chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 chiếc xe mô tô BKS 90B1-378.53.

Ngày 06/7/2019 Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Mạnh T. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 139/PC09-MT ngày 09/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hà Nam, kết luận “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,144g, loại: Heroine.”.

Tại bản cáo trạng số 132/CT-VKS-PL ngày 17/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam truy tố Nguyễn Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý trình bày luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T từ 24 đến 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định; tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô BKS 90B1- 378.53.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.

[3] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh T đã khai, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, kết luận giám định về chất ma túy, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ của vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 08 giờ ngày 05/7/2019 tại tổ 13, phường T, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Nguyễn Mạnh T tàng trữ trái phép 0,144 gam Heroine, mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường T, thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự từ tháng 10/2007 đến tháng 8/2009; bị cáo có bà nội được Nhà nươc tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba và Huy chương kháng chiến hạng nhì, có ông nội được Nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến thắng hạng nhì; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung:

Hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy và các chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an trong xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, việc xét xử nghiêm minh hành vi phạm tội này là cần thiết, với mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện. Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo,thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, bản thân là lao động tự do, mục đích tàng trữ để sử dụng nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác của vụ án: Đối với người thanh niên tên T1 khoảng 35 tuổi, T khai là người đã đi mua ma túy rồi đưa T cất giữ để sử dụng, nhưng T không biết rõ nhân thân lai lịch cụ thể của T1. Cơ quan CSĐT - Công an thành phố Phủ Lý đã điều tra, xác minh nhưng không xác định được, ngoài lời khai của T không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[7] Xử lý vật chứng:

- Toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô BKS: 90B1-378.53 thu giữ của bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo Nguyễn Mạnh T. Bị cáo đã sử chiếc xe này làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí của Quốc hội.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/7/2019. [3] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì đã niêm phong dán kín mặt trước có ghi mẫu vật hoản trả QT01, số 139/PC09-MT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam. Mặt sau có các chữ ký và ghi họ tên của Nguyễn Thị Lan H, Hoàng Anh Đ, một chữ ký đóng dấu chức danh của Trưởng phòng Thượng tá Nguyễn Đại H và đóng ba dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam.

- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe máy đeo biển kiểm soát: 90B1-378.53, số khung: RLGDSB6UM7H016122, số máy: VMSA4B-H016122.

Tình trạng và đặc điểm vật chứng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 18/9/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh T phải nộp: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

[5] Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:131/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về