Bản án 131/2018/HSST ngày 21/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 131/2018/HSST NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 11 năm 2018 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2018/HSST ngày 12 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

Bị cáo thứ nhất:

Họ và tên: Lê Văn A, Tên gọi khác: A Béo, sinh năm 1992; Tại: Bình Phước; HKTT và chỗ ở hiện nay: thôn PL, xã PT, Huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn B, sinh năm 1963 và bà Lê Thị C, sinh năm 1963; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: 02, Ngày 10 tháng 3 năm 2016 bị Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 04 tháng tù, bằng thời hạn tạm giam về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của bản án hình sự sơ thẩm số 07/2016/HSST; Ngày 27 tháng 4 năm 2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST, chấp hành án tại trại giam An Phước, đến ngày 12 tháng 4 năm 2018 chấp hành xong; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị cáo thứ hai:

Họ và tên: Chu Văn D, Tên gọi khác: không, sinh năm 1996; Tại: Hà Tĩnh; HKTT và chỗ ở hiện nay: đội 4, ấp DD, thị trấn TP, Huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước ; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chu Văn Đ, sinh năm 1965 và bà Chu Thị E, sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18 tháng 7 năm 2018 cho đến ngày 24 tháng 7 năm 2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

+ Người bị hại: Công ty TNHH Thọ Phú do anh Đỗ Quốc F - SN: 1964 là Giám đốc làm đại diện theo pháp luật (xin vắng mặt)

Nơi cư trú: khu phố 3, phường TĐ, thị xã Đồng Xoài, Bình Phước.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lưu Xuân G - SN: 1987

Nơi cư trú: thôn PL, xã PT, huyện Phú Riềng, Bình Phước (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 21 giờ 00 ngày 17 tháng 7 năm 2018, Lê Văn A điều khiển xe mô tô không biển số hiệu Dream (xe của anh Lưu Xuân G, bạn của A không biết A mượn xe dùng vào việc phạm tội) đến quán cà phê - trò chơi điện tử máy bắn cá (không biển hiệu) trên đường Quốc lộ 14 thuộc khu phố 1, phường TĐ, thị xã Đồng Xoài do bà Phương Hồng Hạnh làm chủ quán để chơi thì gặp Chu Văn D cũng đang chơi game bắn cá tại đây. Khi gặp A, do đang cần tiền chuộc xe máy đã cầm cố trước đó nên D nói với A là “anh có chỗ nào kiếm tiền, giúp em chuộc xe được không”. Nghe D hỏi vậy thì A rủ D đi trộm cắp tài sản, bằng cách đi tìm nhà dân nào sơ hở thì trộm tài sản bán lấy tiền tiêu xài thì D đồng ý. A điều khiển xe mô tô chở D đi trên các tuyến đường nội ô thuộc thị xã Đồng Xoài để tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khi đi đến đoạn đường nội bộ khu dân cư Đông Á 3 thuộc tổ 3, khu phố SĐ, phường TX, thị xã Đồng Xoài phát hiện một căn nhà lá trên bãi đất trống có để nhiều vật liệu xây dựng, của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Thọ Phú, do ông Đỗ Quốc F làm giám đốc đang thi công công trình cống thoát nước tuyến đường Nguyễn Huệ. Lúc này A dừng xe lại cùng D đi vào công trình thấy bên trong căn nhà lá có nhiều hộp sắt đan lại dùng để đổ trụ bê tông có đặc điểm giống nhau với kích thước dài 1,2m, phi 12, các thanh sắt được gắn kết với nhau bằng đai sắt phi 6 nên cả hai lấy trộm 22 hộp sắt mang ra ngoài để lên xe dùng dây cao su cột lại. Sau đó A điều khiển xe mô tô chở D ngồi phía sau chạy về hướng xã TP, huyện Đồng Phú tìm nơi bán. Khi đi đến ấp CR, xã TP, A thấy 01 cơ sở thu mua phế liệu (không có biển hiệu) đang đóng cửa nên A và D dừng lại định đi vào gọi cửa thì bị lực lượng Công an xã TP, huyện Đồng Phú đang đi tuần tra phát hiện tạm giữ cùng tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 89/KLĐG ngày 23/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Đồng Xoài, kết luận: 22 hộp sắt đan cốt pha để đổ trụ bê tông, kết cấu gồm 4 đoạn sắt phi 12 có cùng chiều dài 1,2m được gắn kết thành khung bằng đai sắt phi 6, mỗi hộp sắt đan có 6 đai có cùng chiều dài 0,55m.

Chiều dài sắt phi 12: 22 hộp 04 x 1,2m = 105,6m

Quy đổi khối lượng 105,6m x 0,888 = 93,7kg (0,888 là trọng lượng riêng của 1m dài sắt phi 12)

Thành tiền 93,7 kg x 15,895đ/kg = 1.489.361 đồng.

Chiều dài sắt phi 6: 22 hộp x 6 đai x 0,55m = 72,6m

Quy đổi khối lượng: 72,6m x 0,222 = 16,1 kg (0,222 là trọng lượng riêng của 01m dài sắt phi 6)

Thành tiền: 16,1 kg x 16.467đ/kg = 265.118 đồng

Tiền gia công sắt: 350.000 đồng

Tổng cộng: 2.104.479 đồng (hai triệu một trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm bảy mươi chín đồng).

- Về vật chứng: Ngày 12 tháng 9 năm 2018 Cơ quan CSĐT Công an thị xã Đồng Xoài ra Quyết định xử lý vật chứng số 99 trả lại cho anh Đỗ Quốc F: 22 hộp sắt đan cốt pha để đổ trụ bê tông, mỗi hộp có kết cấu gồm 04 đoạn sắt phi 12 có cùng chiều dài 1,2m được gắn kết thành khung bằng đai sắt phi 6.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Đỗ Quốc F, giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng Thọ Sơn không yêu cầu về dân sự.

Tại bản Cáo trạng số: 115/CT-VKS-ĐX ngày 11 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài đã truy tố các bị cáo Lê Văn A về tội “trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015; Chu Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 . Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h,s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50; 58 của Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lê Văn A từ 30-36 tháng tù; Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50; 58 của Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Chu Văn D từ 09-12 tháng tù.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, lời trình bày của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ nội dung phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng 115/CT-VKS-ĐX ngày 11 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài đã truy tố các bị cáo.

[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa thấy phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Biên bản bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp; kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa thấy phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của các bị cáo Lê Văn A; Chu Văn D lén lút chiếm đoạt 22 hộp sắt đan cốt pha để đổ trụ bê tông theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự là 2.104.479 đồng (hai triệu một trăm lẻ bốn ngàn bốn trăm bảy mươi chín đồng) là phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; Xét về năng lực hành vi dân sự, các bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, biết việc lén lút chiếm đoạt và tiêu thụ tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên bất chấp pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân là khách thể được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đồng Xoài đã truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Đây là vụ án mang tính chất đồng phạm giản đơn nên cũng cần phân tích vai trò của từng bị cáo để có cơ sở khi lượng hình.

[4.1] Đối với bị cáo Lê Văn A: Bị cáo thực hiện hành vi với vai trò là người khởi xướng đồng thời là người thực hành, trong quá trình chơi Game tại quán và nghe bị cáo D nói “anh có chỗ nào kiếm tiền, giúp em chuộc xe được không” thì bị cáo rủ bị cáo D đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Chính bị cáo là người điều khiển xe mô tô không biển số hiệu Dream (xe của anh Lưu Xuân G, bạn của A không biết A mượn xe dùng vào việc phạm tội) chở bị cáo D đi trộm cắp tài sản. Lợi dụng sơ hở của Công ty TNHH Thọ Phú do anh Đỗ Quốc F là giám đốc, trong quá trình thi công công trình không có người trông coi tại đoạn đường nội bộ khu dân cư Đông Á 3 thuộc tổ 3, khu phố SĐ, phường TX, thị xã Đồng Xoài nên cả hai lấy trộm 22 hộp sắt mang ra ngoài để lên xe và chở đi nhằm bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo là người có nhân thân xấu, cụ thể là ngày 10 tháng 3 năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xử phạt 04 tháng tù, bằng thời hạn tạm giam về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của bản án hình sự sơ thẩm số 07/2016/HSST; Ngày 27 tháng 4 năm 2017 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của bản án hình sự sơ thẩm số 48/2017/HSST, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục đi vào con đường phạm tội với lỗi cố ý, nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó cần phải xét xử bị cáo một mức án nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo, để sau khi chấp hành xong hình phạt trở về địa phương bị cáo biết làm ăn lương thiện, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[4.2] Đối với bị cáo Chu Văn D: Bị cáo thực hiện hành vi với vai trò là người thực hành giúp sức. Sau khi nghe bị cáo A rủ đi trộm cắp tài sản chẳng những bị cáo không can ngăn mà còn hưởng ứng tích cực cùng tham gia. Chính bị cáo là người cùng bị cáo A vào khu vực công trình đang thi công của Công ty TNHH Thọ Phú để lấy trộm 22 hộp sắt. Do đó cần phải xét xử bị cáo một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo thực hiện được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo .

[4.3] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận, có thái độ ăn năn hối cải, Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, sau khi phạm tội, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả lại hết cho bị hại; riêng bị cáo D phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, được hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với chiếc xe mô tô hiệu Dream không biển kiểm soát có số máy VTHHH150FMG10542 bị can A mượn của anh Lưu Xuân G, ngày 30 tháng 7 năm 2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đồng Xoài có Quyết định trưng cầu giám định số 347 về số khung, số sườn, hiện nay chưa có kết quả nên tách ra xử lý sau nên HĐXX không xem xét.

[5.2] Đối với 22 hộp sắt đan cốt pha để đổ trụ bê tông, mỗi hộp có kết cấu gồm 04 đoạn sắt phi 12 có cùng chiều dài 1,2m được gắn kết thành khung bằng đai sắt phi 6, ngày 12 tháng 9 năm 2018 Cơ quan CSĐT Công an thị xã Đồng Xoài ra Quyết định xử lý vật chứng số 99 trả lại cho Công ty TNHH Thọ Phú do anh Đỗ Quốc F làm đại diện theo pháp luật nên HĐXX không xem xét.

[6] về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là Công ty TNHH Thọ Phú do anh Đỗ Quốc F làm đại diện theo pháp luật đã nhận lại tài sản đã bị mất và không có yêu cầu gì thêm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt vấn đề để xem xét.

* Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn A (tên gọi khác : A Béo ); bị cáo Chu Văn D (tên gọi khác: không) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50; 58 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Văn A 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18 tháng 7 năm 2018

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s, khoản 1 Điều 51; 50; 58; 65 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Chu Văn D 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo D về Ủy ban nhân dân thị trấn TP, huyện Đồng Phú là nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

3. Về án phí HSST: Áp dụng Điều 21, 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tại chính quyền địa phương nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2018/HSST ngày 21/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:131/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về