Bản án 131/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 131/2018/HS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 125/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2018/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo: Bùi Văn S, sinh ngày 23/12/197A tại T.B. Nơi cư trú: Tổ 3 phường T.P, thành phố T.B, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị C; tiền án: Tại Bản án số 202/2015/HSST ngày 08/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2015, nộp 200.000 đồng án phí HSST. Ra tù ngày 01/9/2017; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 46/2007/HSST ngày 26/3/2007, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2006, nộp 50.000 đồng án phí HSST. Cơ quan Thi hành án dân sự Ninh Kiều chưa ra quyết định thi hành án đối với khoản án phí HSST 50.000 đồng (đã được xóa án tích), Bản án số 50/2009/HSST ngày 12/5/2009, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 05/02/2009, nộp 50.000 đồng án phí HSST và 50.000 đồng án phí DSST. Buộc bị cáo phải bồi thường và trả lại các bị hại 1.050.000 đồng. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 440.000 đồng của bị cáo. Bị cáo đã nộp 100.000 đồng án phí ngày 11/01/2010; ngày 10/11/2009 đã nộp 440.000 đồng tiền sung công quỹ. Về phần trách nhiệm dân sự thì người bị hại không có đơn yêu cầu nên Cơ quan Thi hành án không thụ lý giải quyết (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 08/6/2018 đến ngày 11/6/2018 chuyển tạm giam; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 08/6/2018, S đi xe ôm của một người không quen biết đến khu vực đường tàu cầu T.B, Quận Lê Chân, Hải Phòng để tìm mua Heroine về sử dụng nhưng không nói cho người lái xe ôm biết. Khi đến chắn tàu đường T.N.H thì S xuống xe trả tiền xe ôm rồi đi bộ một mình vào hành lang đường tàu bên phải hướng đi về phía cầu T.B khoảng 300m thì gặp một nữ giới không quen biết, đeo khẩu trang bịt mặt đứng ở đường tàu mua 2 gói Heroine với giá 100.000 đồng/01 gói và đưa tiền cho người nữ giới. Người nữ giới nhận tiền rồi lấy 02 gói Heroine được gói bằng giấy màu trắng ở trong một chiếc ví màu đen đang cầm trên tay ra đưa lại cho S. S cầm 02 gói Heroine vừa mua được cất vào trong túi áo ngực trái đang mặc rồi đi bộ để tìm chỗ sử dụng. Khi S đi đến khu vực trước cửa nhà số 88 T.N.H, Quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ. Thu giữ trong túi áo ngực bên trái của S đang mặc 02 gói giấy nhỏ mầu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng nghi Heroine. Sau đó đưa S cùng toàn bộ tang vật về trụ sở Công an phường Trại Cau, Quận Lê Chân, Hải Phòng lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 309/KLGĐ(Đ6) ngày 12/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy nhỏ thu giữ của Bùi Văn S là ma túy, có khối lượng 0,2308 gam, là loại Heroine”.

Tại Bản cáo trạng số 130/CT-VKS, ngày 27/8/2018 của Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như nội dung bản cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Văn S mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự : Đề nghị tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ của các bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định còn lại đã được niêm phong.

Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để sớm trở về hòa đồng với xã hội và cải tạo thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

 [2] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với Bản kết luận giám định số 309/KLGĐ(Đ6) ngày 12/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa; lời khai đó khẳng định: Ngày 08/6/2018 Bùi Văn S có hành vi cất giữ trái phép 0,2308 gam ma túy là loại Heroin để sử dụng cho bản thân và bị bắt quả tang tại khu vực trước cửa nhà số 88 T.N.H, Quận Lê Chân, Hải Phòng.

 [3] Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân Quận Lê Chân truy tố bị cáo Bùi Văn Sang theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý chất gây nghiện và là nguyên nhân gây lên các tệ nạn xã hội, các bệnh dịch nguy hiểm cho con người, bị xã hội lên án nên phải xử lý nghiêm, buộc cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

 [5] Nhân thân bị cáo có 03 tiền án, trong đó có 02 tiền án đã được xóa: Tại Bản án số 46/2007/HSST ngày 26/3/2007, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2006, nộp 50.000 đồng án phí HSST. Cơ quan Thi hành án dân sự Ninh Kiều chưa ra quyết định thi hành án đối với khoản án phí HSST 50.000 đồng (đã được xóa án tích); Bản án số 50/2009/HSST ngày 12/5/2009, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 05/02/2009, nộp 50.000 đồng án phí HSST và 50.000 đồng án phí DSST. Buộc bị cáo phải bồi thường và trả lại các bị hại 1.050.000 đồng. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 440.000 đồng của bị cáo. Bị cáo đã nộp 100.000 đồng án phí ngày 11/01/2010; ngày 10/11/2009 đã nộp 440.000 đồng tiền sung công quỹ. Về phần trách nhiệm dân sự thì người bị hại không có đơn yêu cầu nên Cơ quan Thi hành án không thụ lý giải quyết (đã được xóa án tích); tại Bản án số 202/2015/HSST ngày 08/12/2015, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2015, nộp 200.000 đồng án phí HSST, ra tù ngày 01/9/2017. Tiền án này của bị cáo chưa được xóa nên lần phạm tội này của bị cáo bị coi là tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

 [6] Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.

 [7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

 [7] Về xử lý vật chứng: Đối với lượng ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định, còn lại đã được niêm phong, xét đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

 [8] Đối với người phụ nữ bán ma túy cho Bùi Văn S do không xác định được căn cước, lai lịch nên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra, xử lý.

 [9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bùi Văn S 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 08 tháng 6 năm 2018.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu gửi giám định còn lại đã được niêm phong.

 (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/8/2018 giữa Cơ quan Công an Quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự Quận Lê Chân)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Bùi Văn S phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 131/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:131/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về