Bản án 130/2021/HC-PT ngày 24/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 130/2021/HC-PT NGÀY 24/05/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 24 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 532/2020/TLPT-HC ngày 05 tháng 11 năm 2020 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 72/2020/HC-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh A bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3980/2021/QĐPT-HC ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Bá T (Nguyễn Song T), sinh năm 1950;

địa chỉ: Thôn 2, xã Q, thành phố A, tỉnh A; có mặt.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố A, tỉnh A; Địa chỉ: Đường Nguyễn H, phường Đ, thành phố A, tỉnh A.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Huy B - Chủ tịch UBND thành phố A.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Mai K - Phó Chủ tịch UBND thành phố A; vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. UBND huyện X, tỉnh A; địa chỉ: Thị trấn X, huyện X, tỉnh A; vắng mặt.

3.2. UBND xã Q, thành phố A, tỉnh A; vắng mặt.

3.3. Ông Nguyễn Văn Đ và bà Lê Thị H; địa chỉ: Số nhà 78/22 Hồ Bá P, phường L, Quận 9, Thành phố H; ông Đ và bà H đều vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3.4. Ông Nguyễn Văn C; địa chỉ: Thôn Chiến T, xã Quảng R, thành phố A, tỉnh A; vắng mặt.

3.5. Ông Nguyễn Văn D; địa chỉ: Thôn 5, xã Q, thành phố A, tỉnh A;

có mặt.

4. Người làm chứng:

4.1. Ông Lê Bá S; địa chỉ: Thôn 2, xã Q, thành phố A, tỉnh A; có mặt.

4.2. Ông Lâm Thanh E; địa chỉ: Thôn 5, xã Q, thành phố A, tỉnh A; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo người khởi kiện là ông Nguyễn Bá T (Nguyễn Song T) trình bày:

Năm 1993, UBND xã Q có chủ trương bán đất ở tại khu vực Bờ Lừ ven Quốc lộ 8 đường đi Sầm Sơn. Ngày 23/6/1993, ông đăng ký mua và đã nộp tiền cho UBND xã Q tại Phiếu thu 66 ngày 22/6/1993 số tiền 9.000.000 đồng; phiếu thu có ông Lê Bá S là kế toán ngân sách xã, ông Nguyễn Văn O là thủ quỹ và ông Lâm Thanh E là Chủ tịch UBND xã ký. Kể từ ngày ông nộp tiền đến nay đã 26 năm, nhưng UBND xã Q không giao đất cho ông, đã nhiều lần ông đề nghị giải quyết nhưng UBND xã chưa giải quyết.

Khoảng cuối năm 2019, ông gửi đơn đề nghị UBND xã giải quyết giao đất cho ông; ông mới biết ra gia đình ông đã có tên trong danh sách được cấp đất năm 1993 tại khu Bờ Lừ; đất gia đình ông dự kiến được cấp ở thửa 933 tờ bản đồ số 3 đo vẽ năm 1993, có chiều rộng 6m mặt đường và chiều dài khoảng từ 21m trở lên; thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho ông Nguyễn Văn Đ. Quá trình UBND xã Q giải quyết tranh chấp, ông Đ xuất trình một Giấy mua bán nhà ngày 17/3/1994 giữa ông và ông Đ; giấy tờ mua bán nhà ông Đ xuất trình là giấy tờ giả, dựng khống để lừa gia đình ông và để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Đ. Khoảng cuối năm 2018, ông Đ có mang 01 giấy bán nhà đến bảo ông ký nhưng ông không ký; ông đề nghị xác minh, làm rõ giấy bán nhà mà ông Đ xuất trình.

Ngày 07/10/2019, UBND xã có mời ông lên để giải quyết về việc có một hộ đang thi công tại thửa đất 933 tờ bản đồ số 3 (là thửa đất ông dự định sẽ được cấp khi nộp tiền cho xã), ông không có ý kiến gì về việc họ thi công trên thửa đất đó vì ông chưa được UBND xã Q giao đất. Việc ông chưa được giao đất đã yêu cầu UBND xã Q và UBND thành phố A giải quyết nhưng không được. Do đó, ông khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh A hủy GCNQSDĐ số BK103300 ngày 24/5/2012 do UBND huyện X cấp cho ông Nguyễn Văn Đ. Buộc UBND xã Q phải giao đất cho gia đình ông theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bị kiện là UBND thành phố A:

Ông Nguyễn Văn Đ được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ số BK 10330 ngày 24/5/2012 tại thửa 1495-1 tờ bản đồ số 3 xã Q lập năm 2002 diện tích 66m2. Theo báo cáo của UBND xã Q thì thực tế đất của ông Đ thuộc một phần thửa đất 1494, GCNQSDĐ thể hiện thửa 1495-1 là do quá trình kê khai và cấp GCNQSDĐ cho ông Đ có sự nhầm lẫn.

Về nguồn gốc thửa đất: Năm 1993 ông T có nộp tiền mua đất bán trái thẩm quyền của UBND xã Q tại Giấy nộp tiền số 66, số tiền 9.000.000 đồng. Sau đó, ông T chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Văn Đ và bà Lê Thị H với số tiền 14.000.000 đồng, ông Đ được UBND xã Q giao đất ngày 05/5/1994, diện tích 144m2. Năm 2011, thực hiện dự án nâng cấp QL 47 đoạn qua địa giới xã Q, thửa đất của hộ ông Đ bị ảnh hưởng và bị thu hồi 76,2m2 đất ở theo Quyết định số 199/QĐ-UBND ngày 17/02/2011 của UBND huyện X. Ngày 24/5/2012, ông Đ được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ đối với diện tích còn lại là 66m2 đất ở.

Căn cứ hồ sơ, tài liệu các bên cung cấp thể hiện việc chuyển nhượng thửa đất đang tranh chấp giữa ông T với ông Đ, bà H có diễn ra và đã được thực hiện, việc chuyển nhượng được xác nhận bằng Văn bản giao đất sản xuất vào mục đích làm nhà ở ngày 05/5/1994. Việc ông T yêu cầu hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông Đ, UBND thành phố A không có cơ sở xem xét. Bản chất vụ việc là tranh chấp quyền sử dụng đất đã được cấp GCNQSDĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- UBND xã Q:

Ông T có nộp số tiền 9.000.000 đồng để mua đất do UBND xã Q bán năm 1993 và đề nghị UBND xã giao lô đất mà ông đã nộp tiền mua. Sau khi kiểm tra hồ sơ thì phần đất ông T đề nghị trùng vào vị trí hồ sơ đất mang tên ông Nguyễn Văn Đ. UBND xã đã mời 02 hộ làm việc để làm rõ; tại buổi làm việc ông Nguyễn Văn Đ và vợ là bà Lê Thị H báo cáo và cung cấp: Giấy mua bán nhà viết tay ngày 17/3/1994; Văn bản giao đất sản xuất vào mục đích sử dụng làm nhà ở ngày 05/5/1994 của UBND xã Q cho ông Đ (bản phôtô) và khẳng định GCNQSDĐ mang tên ông Nguyễn Văn Đ là do nhận chuyển nhượng đất của ông Nguyễn Song T năm 1994. Ông T khẳng định chưa ký bất kỳ giấy tờ nào để chuyển nhượng đất tại khu Bờ Lừ cho ông Nguyễn Văn Đ nên không thống nhất được nội dung làm việc.

Ngày 10/4/2019, ông Đ đã làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn C với diện tích còn lại sau khi đã thu hồi đất để giải phóng mặt bằng Quốc lộ 47 là 66m2 đất ở, nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền theo quy định, với 02 lý do: Một là, ông Nguyễn Song T đang có đơn tranh chấp; hai là, theo GCNQSDĐ thì đất của ông Nguyễn Văn Đ là thửa số 1495-1 tờ bản đồ 03 bản đồ chỉnh lý năm 2002 nhưng khi kiểm tra trên thực địa thửa đất lại nằm tại thửa số 1494 tờ số 03 bản đồ chỉnh lý 2002 (sai lệch vị trí trên thực địa). Hiện tại, thửa số 1495-1 hộ ông Nguyễn Văn D đã làm nhà ở ổn định.

- UBND huyện X: Không cung cấp tài liệu, chứng cứ, ý kiến trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

- Theo ông Nguyễn Văn Đ, bà Lê Thị H trình bày: Năm 1993, ông T nói được xét cấp một mảnh đất ở khu vực Đu Quan và có ý định chuyển nhượng nên ông bà đồng ý mua giá 18.000.000 đồng, do lúc đó nhà nước không cho bán đất nên ông T có xếp tạm một ít cục đá như kiểu móng nhà để gọi là chuyển nhượng nhà và viết giấy mua bán nhà ngày 17/3/1994 (đã xuất trình từ khi UBND xã giải quyết tranh chấp), giấy do ông T đọc cho bà H viết, ghi chiều rộng đất 9,5m, chiều dài 30m và hộ giáp ranh: Phía Bắc giáp đường 8, phía Đông giáp nhà anh X, phía Tây giáp nhà anh M; giá mua 18.000.000 đồng, lần đầu giao 13.000.000 đồng, lần 2 giao 2.000.000 đồng và khi nào ông T giao giấy tờ đất tên ông Đ sẽ giao nốt 3.000.000 đồng, ông T ký tên vào bên bán, và ký vào chỗ xác nhận đã nhận tiền xong, tổng số tiền chúng tôi đã giao cho ông T là 15.000.000 đồng.

Sau đó, mảnh đất ở Đu Quan mà ông T viết giấy chuyển nhượng cho chúng tôi được UBND xã giao cho ông L, ông T được xét mua mảnh đất khác ở khu vực Bờ Lừ, rộng 6m, dài 24m. Mặc dù, đất tại Bờ Lừ nhỏ hơn, nhưng chúng tôi vẫn đồng ý mua (vì trước đó chúng tôi đã mua được một mảnh đất ở khu vực này) và giữ nguyên Giấy mua bán nhà ngày 17/3/1994 để thực hiện chuyển nhượng vị trí đất ở Bờ Lừ với ông T, và cũng chỉ giao cho ông T 15.000.000 đồng, sau đó do diện tích đất ở Bờ Lừ ít hơn, bà H yêu cầu trả bớt lại tiền nên ông T trả bớt lại cho chúng tôi 1.000.000 đồng. Việc giao tiền cho ông T có vợ ông và ông T biết, không có ai khác chứng kiến.

Sau khi ông giao 15.000.000 đồng được một thời gian, ông T gọi ông đi nhận đất, UBND xã thành lập Đoàn đo đạc, bàn giao đất cho vợ chồng ông trên thực địa có cả ông T tham gia và đã giao cho vợ chồng ông Văn bản giao đất của UBND xã Q ngày 05/5/1994 mang tên Nguyễn Văn Đ đối với thửa đất khu vực Bờ Lừ ông T đã nộp tiền mua của xã. Ông yên tâm về thủ tục nên không viết thêm bất cứ loại giấy tờ nào liên quan đến việc chuyển nhượng nữa. Sau khi được giao đất ông sử dụng trồng cây, sau đó ông Nguyễn Văn D là hộ có đất liền kề mượn sử dụng.

Giấy mua bán nhà gốc chúng tôi giữ và đã nộp trong hồ sơ vụ án, khi làm thủ tục cấp GCNQSDĐ chúng tôi không nộp giấy này mà chỉ nộp Văn bản bàn giao đất năm 1994 của UBND xã Q. Lúc bàn giao đất cho chúng tôi năm 1994 có ông Nguyễn Khắc J là Phó chủ tịch UBND xã Q ký văn bản bàn giao. Hiện tại ông đã nghỉ hưu ở thôn 2 xã Q, đề nghị Tòa án lấy lời khai của ông J để làm rõ sự việc.

Khoảng năm 2010, UBND huyện X thực hiện dự án mở rộng QL 47, diện tích đất bị thu hồi một phần, vợ chồng tôi đã nhận tiền đền bù, thời điểm này chúng tôi chưa được cấp GCNQSDĐ, địa phương căn cứ vào Văn bản bàn giao đất của xã năm 1994 để đền bù đất. Năm 2012, chúng tôi được cấp GCNQSDĐ mang tên Nguyễn Văn Đ đối với 66m2 đất còn lại sau khi bị thu hồi. Năm 2019, chúng tôi chuyển nhượng đất cho anh Thảo. Vợ chồng ông đã nhận chuyển nhượng đất của ông T, đã được UBND xã Q giao đất trực tiếp và sử dụng ổn định, không có tranh chấp từ năm 1994 đến 2019 nên việc ông T khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ đã cấp cho ông là không có căn cứ.

- Anh Nguyễn Văn C: Ngày 10/4/2019 anh nhận chuyển nhượng đất của hộ ông Đ, bà H diện tích 66m2 đất ở theo GCNQSDĐ hộ ông Đ được cấp. Sau khi làm thủ tục chuyển nhượng, 02 bên đến UBND xã Q làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất cho anh, nhưng không thực hiện được vì đất đang có tranh chấp, khiếu nại của ông T. Anh nhận chuyển nhượng đất trên cơ sở GCNQSDĐ hộ ông Đ được Nhà nước cấp, khi mua bán anh không biết việc ông T có tranh chấp về thửa đất này. Đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật và tạo điều kiện để anh được thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.

- Ông Nguyễn Văn D: Thửa đất gia đình ông Đ và ông T đang tranh chấp ở gần thửa đất của gia đình ông, nhưng ông không rõ và không nắm được việc các bên chuyển nhượng thế nào. Diện tích đất ở của gia đình ông, ông mua của UBND xã Q từ năm 1993, sau đó xây nhà và ở ổn định từ 1994. Trước đó, bà H đã mua một mảnh đất liền kề với gia đình ông, sau đó ông có biết ông Đ, bà H mua thêm một suất đất nữa ở bên cạnh gia đình ông (là diện tích đang tranh chấp) nhưng việc mua bán thế nào ông không biết. Do ông Đ, bà H chỉ trồng cây, không xây nhà trên thửa đất này nên hiện nay gia đình vẫn ông sử dụng cả 02 thửa đất của ông Đ, bà H để đóng gạch, làm quán và để xe.

Những người làm chứng trình bày:

- Ông Lê Bá S: Năm 1993, ông là kế toán ngân sách của xã Q và là người viết Phiếu thu tiền mua đất của ông T năm 1993, ông T nộp tiền một lần đủ 9.000.000đ. Ông chỉ biết với số tiền đã nộp ông T sẽ được giao một lô đất tại khu Bờ Lừ (lúc đó đã có danh sách đất, ông T ở vị trí số 3), còn việc ông T đã được bàn giao đất hay chưa, ông không nắm được vì không phải việc của ông. Theo ông, nếu ông T nộp tiền mua đất mà chưa được giao đất thì UBND xã phải giao cho ông T đúng vị trí đất đã mua.

- Ông Vũ Văn X: Năm 1993 ông là Trưởng ban kế hoạch - thống kê của UBND xã Q, không liên quan đến việc thu tiền hay giao đất cho ông T. Ông có biết thời điểm đó ông T được xã xét bán cho 01 lô đất, nhưng không biết đất ở vị trí nào và đã được bàn giao hay chưa. Hiện tại gia đình ông đang sinh sống ở khu vực Đu Quan và liền kề với thửa đất của ông L được UBND xã cấp khoảng năm 1993, 1994; đất của ông L có chiều rộng khoảng từ 9 đến 9,5m dài khoảng 30m.

- Ông Nguyễn Văn O: Năm 1993, ông là thủ quỹ ngân sách của xã Q và là người trực tiếp thu tiền theo Phiếu thu tiền mua đất của ông T năm 1993. Theo chủ trương của xã, các hộ dân mua đất ở khu vực Bờ Lừ đều phải nộp 9.000.000đ; số tiền bán đất dùng để làm đường điện và đài tưởng niệm của xã. Ông T đã nộp đủ tiền còn việc ông T đã được giao đất hay chưa ông không biết.

- Ông Lâm Thanh E: Ông làm Chủ tịch UBND xã Q từ 1989 - 1994. Trong thời gian này, được sự thống nhất của tập thể, xã có chủ trương bán một số lô đất để làm đường điện và đài tưởng niệm của xã. UBND xã dự kiến xét bán cho ông T một lô đất ở khu vực Đu Quan, sau đó khu đất này giao cho ông L nên xét cho ông T khu đất tại Bờ Lừ. Việc thu tiền và giao đất cho ông T như thế nào ông không nắm cụ thể, nhưng theo nguyên tắc thì các hộ mua đất sẽ được bàn giao trên thực địa, việc bàn giao đất do ông Nguyễn Khắc J là Phó chủ tịch UBND xã phụ trách. Ông không biết thời điểm đó đã giao đất cho ông T chưa, toàn bộ tài liệu liên quan ông đã bàn giao lại cho xã, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.

- Ông Nguyễn Khắc J: Năm 1993, ông là Phó chủ tịch UBND xã Q và phụ trách việc bàn giao đất cho các hộ được xét mua đất, sau đó ông làm Chủ tịch UBND xã Q. Năm 1993, UBND xã dự định xét bán cho ông T khu đất tại Đu Quan, sau đó đất ở Đu Quan chuyển cho ông L, nên ông T được xét bán một lô đất tại khu vực Bờ Lừ. Lúc đó, xã có chủ trương thu tiền bán đất nhanh để làm đường điện nên cho phép các hộ đã mua đất được chuyển nhượng đất cho người khác. Khi giao đất ở khu Bờ Lừ ông là người điều hành, ông Tuyên là cán bộ địa chính (hiện nay ông Tuyên đã chết) báo cáo với ông việc đã có giấy chuyển nhượng và giao tiền giữa ông T và ông Đ. Do ông T chuyển nhượng khu đất ở Bờ Lừ cho ông Đ nên chúng tôi giao đất luôn cho ông Đ, việc bàn giao đất trên thực địa có mặt ông T, ông Đ, ông Tuyên và lập Biên bản bàn giao đất ghi rõ thành phần, diện tích và tên người được giao, người nhận đất trực tiếp ký trong văn bản là ông Nguyễn Văn Đ. Từ ngày bàn giao đất năm 1993 đến giữa năm 2019, ông T không có kiện tụng khiếu nại gì về mảnh đất này.

Về chủ trương giao đất của xã: Trên danh sách xét cấp đất của xã vẫn mang tên hộ được xét mua đất, nếu các hộ này chuyển nhượng đất cho người khác và không có tranh chấp vào thời điểm giao đất thì xã sẽ giao đất trực tiếp cho người nhận chuyển nhượng. Đối với trường hợp của ông T, khi bàn giao đất do đã chuyển nhượng cho ông Đ nên bàn giao đất cho ông Đ và ông Đ không phải nộp bất kỳ khoản tiền gì cho xã đối với diện tích đất được giao ở Bờ Lừ.

Khoảng cuối năm 1994, Đoàn thanh tra của tỉnh về kiểm tra việc bán đất trái thẩm quyền của xã Q và niêm yết trong một thời gian dài về danh sách các hộ đã được xét cấp đất, giao đất, chuyển nhượng và nộp tiền mua đất của xã, suốt thời gian đó ông T công tác tại UBND xã (là Phó chủ nhiệm hợp tác xã) nhưng không có ý kiến, khiếu nại gì.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 72/2020/HC-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020, Tòa án nhân dân tỉnh A đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116;điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 204; khoản 1 Điều 206 Luật Tố tụng hành chính.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá T (Nguyễn Song T) về các nội dung:

- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK103300 do UBND huyện X cấp cho ông Nguyễn Văn Đ ngày 24/5/2012.

- Buộc UBND xã Q phải giao cho ông Nguyễn Bá T diện tích đất ông đã nộp tiền mua của UBND xã Q theo Phiếu thu số 66 ngày 22/6/1993.

2. Kiến nghị UBND xã Q và UBND thành phố A thực hiện đính chính sai sót về thửa đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng số BK103300 do UBND huyện X cấp cho ông Nguyễn Văn Đ ngày 24/5/2012.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05/10/2020, người khởi kiện là ông Nguyễn Bá T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Ông Nguyễn Bá T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Bá T; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nghe ý kiến trình bày của đương sự; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội; Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về tố tụng: Ngày 18/01/2020, ông Nguyễn Bá T khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ do UBND huyện X cấp cho ông Nguyễn Văn Đ năm 2012 (tháng 11/2019 ông T mới biết hộ ông Đ được cấp GCNQSDĐ); khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Tòa án nhân dân tỉnh A thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền và còn thời hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

Do thay đổi địa giới hành chính, xã Q đã được sáp nhập vào thành phố A ngày 29/02/2012 nên Tòa án nhân dân tỉnh A xác định người bị kiện là UBND thành phố A, tỉnh A là đúng theo quy định tại khoản 9 Điều 3 của Luật tố tụng hành chính.

[2]. Xét các nội dung khởi kiện của ông Nguyễn Bá T:

[2.1] Yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK103300 ngày 24/5/2012 do UBND huyện X cấp cho ông Nguyễn Văn Đ.

Theo “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994 giữa bên mua là ông Nguyễn Văn Đ, bên bán là ông Nguyễn Bá T, nội dung: Ông T có 01 cái nhà tạm trên mảnh đất chiều rộng 9,5m, chiều dài 30m bán cho ông Đ giá 18.000.000đ, phía Đông giáp nhà ông X, phía Tây giáp nhà ông F, phía Nam giáp ruộng lúa; thể thức giao tiền: Ngày 17/3/1994 ông Đ giao 13.000.000đ; đợt 2 giao 2.000.000đ khi có giấy sử dụng đất; đợt 3 giao 3.000.000đ vào lúc có giấy tờ đứng tên ông Đ. Bên bán và bên mua đã ký tên vào giấy, phía dưới có nội dung ông Đ đã giao 02 lần tiền bằng 15.000.000đ cho ông T.

Ông T cho rằng năm 1993, ông đã nộp 9.000.000đ cho UBND xã Q để mua 01 lô đất ở khu vực Bờ Lừ (thuộc xã Q), đồng thời giữa ông và ông Đ, bà H không có việc chuyển nhượng đất, vị trí, kích thước đất ghi trong giấy mua bán ông Đ xuất trình không phải là hiện trạng đất ông mua ở Bờ Lừ, ông cũng không ký vào bất kỳ loại giấy tờ nào về việc mua bán đất với vợ chồng ông Đ, giấy mua bán nhà do ông Đ xuất trình trong hồ sơ là giả mạo, dựng khống để cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn Đ.

Ông Đ, bà H cho rằng Giấy mua bán trên hai bên viết vào thời điểm ông T dự kiến sẽ được mua mảnh đất ở khu vực Đu Quan (thuộc xã Q) nên kích thước, các phía giáp ranh ghi trong giấy là hình thể của thửa đất tại Đu Quan, nhưng sau đó lô đất này UBND xã xét bán cho người khác, còn ông T được xét bán lô đất ở Bờ Lừ, nhưng do đã giao một phần tiền như đã ghi trong “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994 nên hai bên vẫn đồng ý mua bán khu đất ở Bờ Lừ và không viết lại giấy tờ mà dùng luôn “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994 để thực hiện việc mua bán và thanh toán tiền khu đất mua của ông T ở Bờ Lừ.

Lời khai của những người có thẩm quyền xét bán đất và giao đất cho các hộ mua đất của UBND xã Q năm 1993, 1994: Ban đầu ông T được xã xét bán cho 01 khu đất ở khu vực Đu Quan nhưng khu đất đó được giao cho ông L, nên xét cho ông T được mua một mảnh đất ở Bờ Lừ. Chủ trương của xã là những người được xét bán đất có thể chuyển nhượng luôn cho người khác và nếu chuyển nhượng thì UBND xã sẽ giao đất luôn cho người nhận chuyển nhượng; đối với trường hợp của ông T, tại thời điểm bàn giao đất Bờ Lừ năm 1994 xác định ông T đã bán đất cho ông Đ nên UBND xã giao lô đất ông T nộp tiền mua của xã cho ông Đ, việc bàn giao đất có mặt ông T (lúc này ông T đang là Phó chủ nhiệm HTX của UBND xã Q); ông Đ không phải nộp bất kỳ khoản tiền nào cho xã.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10/9/2020, ông T đề nghị Hội đồng xét xử ngừng phiên tòa để giám định chữ viết tên của ông trong “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994. Ngày 15/9/2020, ông T có đơn đề nghị rút yêu cầu giám định chữ viết, chữ ký của ông trên tài liệu do ông Đ xuất trình. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T đề nghị được giám định chữ viết tên của ông trong “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông T, vì tại cấp sơ thẩm ông T đã rút yêu cầu này.

Ông T không thừa nhận việc ông đã chuyển nhượng diện tích đất ông đã nộp tiền mua của UBND xã Q tại khu vực Bờ Lừ cho ông Đ, bà H và phủ nhận chữ viết của ông trong “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994. Nhưng căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các đương sự và những người làm chứng có cơ sở xác định năm 1993 UBND xã Q dự định bán cho ông T mảnh đất tại Đu Quan, mảnh đất này có kích thước các cạnh và các hộ giáp ranh trùng với hiện trạng của mảnh đất ghi trong “Giấy mua bán nhà” ngày 17/3/1994 do ông Đ xuất trình. Các tài liệu trong hồ sơ thể hiện mặc dù ông Đ không phải là người được xét mua đất và nộp tiền mua đất cho UBND xã Q, nhưng ông Đ đã được UBND xã Q giao lô đất tại vị trí đất ông T đã nộp tiền mua của UBND xã có sự chứng kiến của ông T. Việc sử dụng đất của hộ ông Đ được ghi nhận trong bản đồ địa chính của địa phương, năm 2010 hộ ông Đ bị thu hồi một phần đất, năm 2012 được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích còn lại sau khi thu hồi. UBND xã Q giao luôn diện tích đất ông T đã nộp tiền mua của UBND xã cho ông Đ, mặc dù về bản chất là các bên đã có sự chuyển nhượng, ông T có chứng kiến việc giao đất và không có ý kiến tranh chấp gì từ năm 1994 đến 2019; nhưng việc giao đất là chưa đúng quy định nên UBND xã Q cần rút kinh nghiệm về sai sót này.

Từ những phân tích trên, có căn cứ xác định việc ông Đ được giao đất theo “Văn bản giao đất sản xuất vào mục đích sử dụng làm nhà ở nhân dân ngày 05/5/1994” của UBND xã Q là do nhận chuyển nhượng từ ông T. Quá trình ông Đ, bà H sử dụng đất và được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc hủy GCNQSDĐ do UBND huyện X cấp cho ông Đ năm 2012 là có căn cứ. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông T về việc hủy GCNQSDĐ.

[2.2] Về yêu cầu buộc UBND xã Q phải giao đất cho gia đình ông T.

Như đã phân tích ở phần trên, có căn cứ xác định ông T đã nộp tiền cho UBND xã Q để mua 01 lô đất tại khu vực Bờ Lừ, nhưng khi UBND chưa bàn giao đất cho ông T thì ông T đã chuyển nhượng luôn cho ông Đ nên UBND xã Q đã bàn giao thửa đất do ông T nộp tiền mua của xã cho ông Đ bằng “Văn bản giao đất sản xuất vào mục đích sử dụng làm nhà ở nhân dân ngày 05/5/1994”. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông T yêu cầu UBND xã Q phải bàn giao lô đất ông đã nộp tiền mua theo Phiếu thu tiền năm 1993.

[3]. Theo báo cáo của UBND xã Q và ý kiến của UBND thành phố A thì thửa đất ghi trên GCNQSDĐ mà UBND huyện X cấp cho ông Đ là thửa số 1495-1, tờ bản đồ số 03, bản đồ chỉnh lý 2002, nhưng trên thực địa thửa đất lại nằm tại vị trí thửa số 1494 tờ bản đồ số 03, bản đồ chỉnh lý 2002. Như vậy, có sai sót về thửa đất ghi trên GCNQSDĐ cấp cho ông Đ. Do đó, kiến nghị UBND xã Q và UBND thành phố A thực hiện thủ tục đính chính Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Nguyễn Văn Đ theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai 2013 để bảo đảm quyền lợi của người sử dụng đất.

[4]. Về án phí: Ông Nguyễn Bá T là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

[5]. Các quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn án phí và lệ phí Tòa án.

Bác kháng cáo của ông Nguyễn Bá T (Nguyễn Song T); giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 72/2020/HC-ST ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh A.

Về án phí: Ông Nguyễn Bá T được miễn án phí hành chính phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1368
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2021/HC-PT ngày 24/05/2021 về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai

Số hiệu:130/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về