Bản án 130/2021/DS-PT ngày 29/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 130/2021/DS-PT NGÀY 29/04/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 96/2020/TLPT-DS ngày 28 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2020/DS-ST ngày 05/10/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1046/2021/QĐ-PT ngày 09-4-2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; địa chỉ: tỉnh Gia Lai (ông S có mặt, bà Đ có đơn xét xử vắng mặt);

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lê Văn S: Ông Huỳnh Văn K - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai; địa chỉ: tỉnh Gia Lai, có mặt;

2. Bị đơn: Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K; cùng địa chỉ: tỉnh Gia Lai, vắng mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Lê Thị Ngọc T; địa chỉ: tỉnh Gia Lai, có mặt;

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Võ Đình D, bà Trần Thị X; địa chỉ: tỉnh Gia Lai, có đơn xét xử vắng mặt;

- Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Gia Lai; địa chỉ: thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện C:

Ông Nguyễn Thanh P, chức vụ Phó Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai, có mặt;

- Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai; địa chỉ: tỉnh Gia Lai, vắng mặt.

Người kháng cáo: Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K; ông Võ Đình D, bà Trần Thị X

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn khởi kiện bổ sung, các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị K trình bày, thể hiện:

Ngày 11/1/2000, họ (ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị K) nhận chuyển nhượng của ông Võ Đình D, bà Trần Thị X thửa đất diện tích 400m2, thuộc thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; có tứ cận như sau: Đông giáp đất ông A L, Tây giáp Quốc lộ 14, Bắc giáp đường làng K, Nam giáp đất ông V. Sau khi nhận đất, gia đình họ đã sinh sống làm ăn ổn định trên đất. Tuy nhiên, nay gia đình họ muốn làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) thì được biết một phần diện tích đất (khoảng 200m2) của gia đình tôi đang sử dụng thuộc thửa đất số 121, tờ bản đồ 17, đã được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện C ký GCNQSDĐ số 00691/11/2000/QĐ- UB (H) năm 2000 cấp cho ông Trần Đặng V. Phát hiện vụ việc, họ đã nhiều lần yêu cầu ông V, bà K chấm dứt hành vi vi phạm, trả lại đất. Vì vậy, ngày 04/7/2016 ông S đã làm đơn gửi UBND xã I để giải quyết vụ việc. UBND xã I đã nhiều lần tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Việc làm của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nay họ khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai buộc ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K chấm dứt hành vi vi phạm, trả lại cho họ diện tích đã lấn chiếm là 200m2; đồng thời, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy GCNQSDĐ được UBND huyện C ký số 0069/11/2000/QĐ-UB năm 2000 cho ông Trần Đặng V.

Ngày 26/9/2018, ông S, bà Đ có đơn sửa đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện: Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/4/2018, họ đã yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai buộc ông V và bà K chấm dứt hành vi vi phạm, trả lại cho họ diện tích đất đã lấn chiếm là 200m2; đồng thời, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy GCNQSDĐ được UBND huyện C ký số 0069/11/2000/QĐ-UB năm 2000 cho ông Trần Đặng V, giá trị tài sản đang tranh chấp khoảng 60.000.000 đồng. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và qua việc cung cấp thông tin của UBND huyện C, thì họ được biết GCNQSDĐ do UBND huyện C cấp cho ông V, bà K là căn cứ theo Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000 về việc cấp GCNQSDĐ xã I. Theo quyết định này, UBND huyện C cấp giấy chứng nhận cho 1.311 hộ gia đình đủ điều kiện của xã I, trong đó có hộ ông Trần Đặng V. Vì vậy, họ yêu cầu Tòa án:

- Buộc ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K chấm dứt hành vi vi phạm, trả lại cho gia đình họ khoảng 100m2 đất tính từ hàng rào xây gạch ngăn cách giữa 2 nhà.

- Tuyên hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000 về việc cấp GCNQSDĐ xã I, đối với phần cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Đặng V và hủy GCNQSDĐ số R362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V. Vì UBND huyện C đã ra Quyết định số 11 và cấp GCNQSDĐ cho ông V bao gồm diện tích đất mà gia đình họ đã nhận chuyển nhượng của gia đình ông D.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu Tòa án buộc bị đơn phải trả lại cho họ đủ 400m2 đất mà họ đã mua của ông D, bà X, tính từ hàng rào giữa hai nhà (theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 13/7/2020 thì diện tích này là 127,8m2) và yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ- UB ngày 18/7/2000 về việc cấp GCNQSDĐ xã I đối với phần cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Đặng V và hủy GCNQSDĐ số R362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V.

2. Tại văn bản trình bày ý kiến, đơn phản tố và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án và trình bày tại phiên tòa của bị đơn và của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, thể hiện:

Gia đình ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K và ông Võ Đình D làm nhà ở cạnh nhau từ khi đất đai còn hoang vu, hai bên sống hòa thuận không khiếu kiện tranh chấp. Năm 1999, Tổng Cục đo đạc đã đo thực tế diện tích đất đang sử dụng của các hộ dân, rồi mời cả làng đến nhà ông Nhân (lãnh đạo thôn lúc đó) họp, công bố kết quả đo đạc. Mọi người đều nhất trí với kết quả đã đo, không tranh chấp. Đồng thời, đăng ký mục đích sử dụng, ông D nói không ở đây lâu dài, vì ông đã có đất ở ngoài Chư Á, vậy nên đất của ông D được đăng kí là đất nông nghiệp. Còn ông V chỉ có một mảnh này nên được đăng ký là đất ở lâu dài. Đến năm 2000 nhận được GCNQSDĐ, họ cũng không tranh chấp; rồi ông D nhượng hết phần đất này cho ông S, ông S đã nhận được tất cả phần đất này của ông Võ Đình D.

Ông V, bà K chuyển ra C ở, nhà đất tạm bỏ hoang. Ông Lê Văn S mở rộng sân phơi sang phần đất của ông V, bà K; căng lưới rào lại với lý do để bảo quản cà phê, làm thay đổi ranh giới. Sau đó, ông S bán phần sân phơi này cho ông S. Ông S phát hiện không bình thường, liền bán lại cho ông P. Ông P đến làm thì ông S ngăn cản, ông P phải lấy danh nghĩa ông S phát đơn kiện. Lúc đó, ông V, bà K mới biết họ đang tranh chấp đất của ông bà; ông bà đã thỏa thuận với họ nhưng không được. Để ngăn chặn không bị lấn chiếm tiếp, ông V, bà K đành xây tạm tường bao phần đất còn lại là 23m theo Quốc lộ 14 như hiện trạng bây giờ. Thấy ông V, bà K xây tường rào, ông S liền phát đơn kiện đòi ông bà đưa giấy để cắt lấy sổ đất đã chiếm (Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai số 03/2017/QĐST-DS ghi ông S đòi 100m2). Ông V, bà K không đồng ý với yêu cầu khởi kiện đòi đất của nguyên đơn ông S, bà Đ.

Ngày 14/01/2019, bị đơn ông V, bà K có đơn phản tố với nội dung: Ngày 18/7/2000, gia đình ông bà được UBND huyện C cấp GCNQSDĐ số R 362807, tờ bản đồ số 17, thửa đất số 121, diện tích đất ở là 400m2, đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai mang tên Trần Đặng V. Đất có tứ cận: Phía Đông giáp thửa đất số 119, có kích thước 29,01m; phía Tây giáp Quốc lộ 14, có kích thước 29,77m; phía Nam giáp đường hiện trạng, có kích thước 13.47m; phía Bắc giáp thửa đất số 120 (đất của ông D), kích thước 13,78m.

Nguồn gốc đất trên là do gia đình ông bà nhận chuyển nhượng từ ông Võ Đình D vào năm 1998, với diện tích 575m2 (chiều rộng giáp Quốc lộ 14 và phía sau giáp đất của ông L dài 23m và chiều dài 1 bên giáp đất ông D, 1 bên giáp thôn K dài 25m), chưa trừ chỉ giới. Đến ngày 24/6/1999, gia đình ông bà tiếp tục nhận chuyển nhượng của gia đình ông D 175m2 (chiều rộng giáp Quốc lộ 14 dài 7m, phía sau giáp đất của ông L dài 7m và chiều dài 1 bên giáp đất ông D, 1 bên giáp đất gia đình ông bà dài 25m), chưa trừ chỉ giới xây dựng.

Năm 1999, gia đình ông bà kê khai diện tích đất nhận chuyển nhượng từ ông Võ Đình D để được cấp GCNQSDĐ. Tại Biên bản xác nhận của các hộ lân cận không tranh chấp (trong đó, ông D cũng xác nhận đất không tranh chấp với gia đình ông bà) và thời điểm này, ông D cũng làm hồ sơ để được cấp GCNQSDĐ đối với phần đất còn lại 191m2 (sau khi đã trừ phần đất chuyển nhượng 30m mặt đường giáp Quốc lộ 14 cho gia đình).

Ngày 18/7/2000, ông Võ Đình D được UBND huyện cấp GCNQSDĐ số R 885166, thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, diện tích 191m2 đất vườn. Sau đó, ông D chuyển nhượng toàn bộ thửa đất này cho ông Lê Văn S. Đến ngày 17/6/2016, ông Lê Văn S được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp GCNQSDĐ số CĐ 601915. Qua quá trình giải quyết, các cơ quan chức năng đã kiểm tra, đo đạc thực tế và có kết luận: Gia đình ông S đã lấn chiếm đất của gia đình ông bà khoảng 90m2, phần đất lấn chiếm có tứ cận: Phía Đông giáp thửa số 119 là 6,58m; phía Tây giáp Quốc lộ 14 là 6,58m; phía Nam giáp đất của ông bà là 13,7m; phía Bắc giáp đất ông S là 13,7m. Nay ông bà yêu cầu Tòa án buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm cho gia đình ông bà đúng với diện tích đất mà UBND huyện C đã cấp GCNQSDĐ số R 362807 ngày 18/7/2000 cho gia đình ông bà.

Tại phiên tòa, bị đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông S, bà Đ phải trả 80,51m2 đất lấn chiếm theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 13/7/2020.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện C trình bày:

Qua kiểm tra, tại kho lưu trữ huyện không có hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ số R 362807 đã được UBND huyện cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V tại thửa đất số 121, tờ bản đồ số 17, diện tích 400m2. Tuy nhiên, theo Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000 của UBND huyện C về việc cấp GCNQSDĐ xã I, kèm theo danh sách cấp GCNQSDĐ có tên ông Trần Đặng V, tại thửa đất số 121, tờ bản đồ số 17, diện tích 400m2 đất ở. Thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông Trần Đặng V là đúng theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm năm 2000. Vì vậy, UBND huyện C không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000, về việc cấp GCNQSDĐ xã I đối với phần cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Đặng V và hủy GCNQSDĐ số R 362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V.

3.2. Ông Võ Đình D, bà Trần Thị X trình bày, thể hiện:

Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của bị đơn thì họ (ông Võ Đình D, bà Trần Thị X) không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không đồng ý với yêu cầu phản tố của bị đơn. Khi bán cho ông S là khoảng 20m mặt đường Quốc lộ 14; còn ông V, bà K thì không nhớ, có làm hợp đồng tay và vợ chồng ông V, bà K giữ. Ông D, bà X mong muốn hai bên hòa giải như hiện trạng đang sử dụng.

3.3. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai trình bày, thể hiện:

Ngày 18/7/2000, ông Võ Đình D và bà Trần Thị X, địa chỉ: Thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai được UBND huyện C cấp thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, diện tích 191m2 đất vườn, có nguồn gốc: Công nhận quyền sử dụng đất không thu tiền sử dụng đất, GCNQSDĐ số R 885186. Đến ngày 12/5/2016, ông Võ Đình D, bà Trần Thị X chuyển nhượng cho ông Lê Văn S thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, diện tích 191m2 đất vườn. Đã lập thủ tục đăng ký biến động tại bộ phận 1 cửa huyện C và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C trình Sở Tài nguyên và Môi trường ký GCNQSDĐ số CĐ 601915 ngày 17/6/2016. Việc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C thực hiện việc thẩm định hồ sơ chuyển nhượng của ông Võ Đình D cho ông Lê Văn S, trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa hộ ông (bà) Võ Đình D, Trần Thị X với ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ, được Phòng công chứng X Hiệp, tỉnh Gia Lai chứng nhận ngày 10/5/2016 là phù hợp với quy định tại Điều 79 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, quy định về cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Vì vậy, Sở Tài nguyên và Môi trường đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết vụ việc theo thẩm quyền.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2020/DS-ST ngày 05-10-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai quyết định:

Căn cứ các Điều 26, 37; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 40; khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 163, 164, 166 của Bộ luật Dân sự. Các Điều 166, 167, 170 và 203 của Luật Đất đai. Điều 26, 27 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ về việc buộc ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K trả lại 127,8m2 đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông V và bà K cạnh dài 9,35m, phía Tây giáp Quốc lộ 14 cạnh dài 9,35m, phía Nam giáp đất ông V, bà K đang sử dụng cạnh dài 13,62m, phía Bắc giáp đất ông sinh, bà Đ đang sử dụng cạnh dài 13,72m.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ về việc yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000, về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xã I đối với phần cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Đặng V và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V.

- Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải trả lại cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K 80,51m2 đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; có tứ cận: Phía Đông giáp đất của ông S, bà Đ cạnh dài 5,5m, phía Tây giáp Quốc lộ 14 cạnh dài 6,3m, phía Nam giáp đất của ông V, bà K dài 13,72m, phía Bắc giáp đất của ông S, bà Đ dài 13,78m.

- Buộc ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K phải thanh toán cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ 50.000.000 đồng công sức giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị của đất.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 12/10/2020 và ngày 23/10/2020, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo; ngày 14/10/2020, ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K kháng cáo; ngày 17/10/2020, ông Võ Đình D, bà Trần Thị X kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Lê Văn S trình bày giữ nguyên đơn khởi kiện, đơn kháng cáo; người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K trình bày giữ nguyên đơn kháng cáo.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm trong quá trình giải quyết vụ án chưa xem xét quá trình sử dụng đất của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ từ năm 2000 đến nay. Bị đơn trong quá trình sử dụng đất đã tự ý xây dựng tường rào, nên bức tường được xác định là ranh giới. Tòa án cấp sơ thẩm có nhiều vi phạm tố tụng, do vậy đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giao hồ sơ vụ án về xét xử sơ thẩm lại. Ông S không bổ sung gì thêm.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K trình bày: Bị đơn nhận chuyển nhượng đất của ông D hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1998 với chiều dài Quốc lộ 14 là 23m, chiều sâu là 25m, hai bên có viết giấy tay và giấy này bị đơn đã nộp cho Tổng cục đo đạc Nhà nước để kê khai. Lần thứ hai vào năm 1999, nhận chuyển nhượng với chiều dài Quốc lộ 14 là 07m, chiều sâu 25m, có viết giấy tay và đã nộp cho Tòa án. Tổng cộng hai lần nhận chuyển nhượng là khoảng 750m2 với chiều dài giáp Quốc lộ 14 là 30m. Hai lần nhận chuyển nhượng đất của ông D đã được ông D thừa nhận. Mặc dù, ông D thừa nhận có chuyển nhượng đất cho ông V, bà K hai lần và có viết giấy, nhưng ông D lại không thừa nhận chuyển nhượng đất cho ông V, bà K có chiều dài giáp Quốc lộ 14 là 30m, nhưng ông D không đưa ra được chứng cứ để chứng minh cho nội dung này. Còn nguyên đơn chỉ nhận chuyển nhượng đất của ông D một lần, với diện tích 191m2 theo GCNQSDĐ số R 885186 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Võ Đình D và bà Trần Thị X, tại thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17. Ngoài ra, bị đơn không có chứng cứ nào khác để chứng minh có nhận chuyển nhượng đất của ông D với diện tích 400m2. Diện tích thực tế sử dụng của ông V, bà K là thiếu 80,51m2 đất so với GCNQSDĐ; còn ông S, bà Đ đang sử dụng thừa 80,51m2 đất so với GCNQSDĐ. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận phản tố của bị đơn, nhưng lại buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn 50.000.000 đồng công sức giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị của đất và chịu ½ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là không có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị đơn tự nguyện hỗ trợ nguyên đơn 10.000.000đ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và của ông Võ Đình D, bà Trần Thị X; chấp nhận kháng cáo của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K, sửa Bản án sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện C trình bày, thể hiện: Trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông Trần Đặng V đối với diện tích 400m2 đất là đúng theo quy định của pháp luật đất đai. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000, về việc cấp GCNQSDĐ xã I, đối với phần cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Đặng V và hủy GCNQSDĐ số R 362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V là không có căn cứ. Đề nghị bác kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý phúc thẩm vụ án, đến trước thời điểm nghị án là đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K; ông Võ Đình D, bà Trần Thị X là trong thời hạn luật định. Ông Võ Đình D, bà Trần Thị X và bà Nguyễn Thị Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do vậy đề nghị xét xử vắng mặt ông D, bà X, bà Đ.

- Về nội dung vụ án: Ngày 18/7/2000, UBND huyện C cấp GCNQSDĐ cho ông Võ Đình D số R 885166, tại thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, diện tích 191m2; cấp GCNQSDĐ cho ông Trần Đặng V số R 362807, tại thửa đất số 121, tờ bản đồ số 17, diện tích 400m2. Ông V và ông D không khiếu nại gì với nhau về diện tích được cấp GCNQSDĐ nêu trên. Ngày 10/5/2016, ông D, bà X chuyển nhượng cho ông S diện tích 191m2 theo GCNQSDĐ số R 885166, tại thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, do UBND huyện C cấp cho ông Võ Đình D. Hợp đồng chuyển nhượng được văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận. Sau đó, ông S được cấp GCNQSDĐ số CĐ 601915 tại thửa đất số 120, tại thửa đất số 120. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, diện tích thực tế sử dụng của ông V, bà K là thiếu 80,51m2 đất so với GCNQSDĐ; còn ông S, bà Đ đang sử dụng thừa 80,51m2 đất so với GCNQSDĐ. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận phản tố của bị đơn và buộc nguyên đơn trả cho bị đơn 80,51m2 đất là có căn cứ. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn tiền công sức gìn giữ, tôn tạo làm tăng giá trị của đất với số tiền 50.000.000đ là không có căn cứ. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết đối với một số cây ăn quả do ông S trồng trên diện tích 80,51m2 đất là chưa giải quyết triệt để. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm lại buộc bị đơn chịu ½ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là không đúng. Bị đơn đồng ý tự nguyện hỗ trợ nguyên đơn 10.000.000đ tiền chi phí tôn tạo đất, đề nghị chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết về phần án phí dân sự sơ thẩm đối với tài sản trên đất, phần thanh toán công sức tôn tạo, làm tăng giá trị đất là không đúng. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và của ông Võ Đình D, bà Trần Thị X; chấp nhận kháng cáo của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K, sửa Bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Ngày 12/10/2020 và ngày 23/10/2020, ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo; ngày 14/10/2020, ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K kháng cáo; ngày 17/10/2020, ông Võ Đình D, bà Trần Thị X kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm số 23/2020/DS-ST ngày 05-10-2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Như vậy, kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K; ông Võ Đình D, bà Trần Thị X là trong thời hạn luật định. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm. Ông Võ Đình D, bà Trần Thị X và bà Nguyễn Thị Đ kháng cáo, nhưng có đơn xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử vắng mặt ông Võ Đình D, bà Trần Thị X, bà Nguyễn Thị Đ theo quy định của pháp luật.

[2] Xét nguồn gốc đất tranh chấp:

Qúa trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, ông Võ Đình D khẳng định có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K và ông Lê Văn S. Trong đó, chuyển nhượng cho ông Lê Văn S một lần, cho ông Trần Đặng V hai lần; cả hai lần chuyển nhượng cho ông V đều trước ông S. Lời trình bày này của ông Võ Đình D là có căn cứ, phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

[3] Xem xét kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K; ông Võ Đình D, bà Trần Thị X:

[3.1] Kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và của ông Võ Đình D, bà Trần Thị X:

Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: (1)Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/01/2000, giữa bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Võ Đình D, với bên nhận chuyển nhượng là ông Lê Văn S; Hợp đồng được tổ dân phố xác nhận tháng 10/2000 và UBND xã I xác nhận ngày 10/01/2000 (bút lục số 183 đến 185). (2) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng là ông Võ Đình D, bà Trần Thị X với bên nhận chuyển nhượng là ông Lê Văn S; Hợp đồng được Văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận ngày 10/5/2016 (bút lục số 201 đến 203). Xem xét hai Hợp đồng nêu trên thấy rằng:

(1)Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Võ Đình D, với ông Lê Văn S được hai bên ký kết ngày 04/01/2000, có xác nhận của tổ dân phố và của UBND xã I, thể hiện: “... Ông D chuyển nhượng cho ông S khoảng 400m2 đất, thửa đất chuyển nhượng có ranh giới: phía Đông giáp AL, phía Tây giáp Quốc lộ 14, phía Nam giáp Đặng Đình V, phía Bắc giáp đường làng... tổ dân phố ký xác nhận 10/2000; UBND xã ký xác nhận 10/01/2000”. Xem xét hợp đồng nêu trên thấy rằng: Hợp đồng không thể hiện kích thước cụ thể tứ cận của thửa đất chuyển nhượng. Hơn nữa, tại phần II của Hợp đồng ghi nội dung, trình tự xác nhận của tổ dân phố là tháng 10/2000, nhưng xác nhận của UBND xã lại vào ngày 10/01/2000 là có sự mâu thuẫn về thời gian xác nhận. Nên việc xác nhận này không thể hiện đúng tính xác thực của sự việc. Đồng thời, khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thì diện tích đất chuyển nhượng của ông Võ Đình D chưa được cấp GCNQSDĐ.

(2)Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Võ Đình D, bà Trần Thị X với ông Lê Văn S, được Văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận ngày 10/5/2016, thể hiện: “... Ông Võ Đình D và bà Trần Thị X được UBND huyện C cấp GCNQSDĐ số R 885186 ngày 18/7/2000, đối với diện tích 191m2 đất vườn, tại thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Ông D, bà X chuyển nhượng cho ông S 191m2 đất, theo GCNQSDĐ số R 885166 và được Văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận ngày 10/5/2016...”. Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này giữa ông Võ Đình D, bà Trần Thị X với ông Lê Văn S là hợp pháp; phù hợp với Tờ trình ngày 06/6/2016 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện C gửi Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Gia Lai, thể hiện: :... Hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ của ông Lê Văn S, đối với thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, địa chỉ thôn K, xã I, huyện C, diện tích 191m2, có nguồn gốc sử dụng đất là do nhận chuyển nhượng đất được công nhận QSDĐ như giao đất không thu tiền sử dụng đất...” (bút lục số 204). Ngày 17/6/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Gia Lai cấp GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CĐ 601915 cho ông Lê Văn S, đối với diện tích 191,0m2, thửa số 120, tờ bản đồ số 17, nguồn gốc sử dụng là do nhận chuyển nhượng đất được công nhận QSDĐ như giao đất không thu tiền sử dụng đất (bút lục từ số 79 đến 81).

Qúa trình giải quyết vụ án, ông S, bà Đ và ông D cho rằng căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/01/2000, thì ông D đã chuyển nhượng cho ông S khoảng 400m2 đất; còn Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận ngày 10/5/2016 là để hợp thức hóa một phần diện tích đất nhận chuyển nhượng, nhưng ông S, bà Đ và ông D không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho nội dung trình bày này là có căn cứ. Trong khi, tại Biên bản lấy lời khai, Biên bản đối chất do Tòa án lập và Bản tự khai của ông Võ Đình D có nhiều mâu thuẫn về việc xác định diện tích đất ông D chuyển nhượng cho ông Lê Văn S.

Ngoài ra, hồ sơ vụ án còn có tài liệu, chứng cứ do UBND xã I cung cấp là Sổ mục kê đất đai thôn K, xã I, huyện C và Bản đồ địa chính đo vẽ năm 1999 khu vực K, xã I, huyện C (bản phô tô có đóng dấu treo của UBND xã), thể hiện: “... Tại trang số 59, tên chủ sử dụng đất Võ Đình D, thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, diện tích 191m2, loại đất ở...” (bút lục số 271, 272).

Ông Võ Đình D, bà Trần Thị X kháng cáo và có đơn xét xử vắng mặt, nhưng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Với những nội dung được phân tích nêu trên, có căn cứ khẳng định: Ông Võ Đình D có chuyển nhượng cho ông Lê Văn S diện tích 191m2 đất, tại thửa đất số 120, tờ bản đồ số 17, địa chỉ thôn K, xã I, huyện C, được Văn phòng công chứng X Hiệp chứng nhận ngày 10/5/2016 là hợp pháp và có căn cứ.

[3.2] Kháng cáo của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K:

Mặc dù, ông Võ Đình D không nhớ cụ thể diện tích đất hai lần ông D chuyển nhượng cho ông Trần Đặng V. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, thể hiện: (1)Tại Bản tự khai ngày 12/02/2018, ông Võ Đình D khai, thể hiện: “Khoảng chừng vào năm 1998 tôi có sang nhượng vườn cho anh V, tôi nhớ khoảng chừng 16m (mặt đường) Quốc lộ 14B có ranh giới bờ rào cây sống đã trồng sau này tôi bán cho ông Lê Văn S theo bờ rào đã định mảnh liền kề hai bên thỏa thuận xong xuôi...” (bút lục số 96). (2)Tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 23/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đối với ông Võ Đình D, thể hiện (nội dung trả lời của ông D): “Tôi có bán cho ông V, bà K một lô đất vào năm 1998, có tứ cận phía Tây giáp Quốc lộ 14, phía Đông giáp đất của ông L, phía Nam giáp đường lô cuối làng K, phía Bắc giáp đất còn lại của tôi. Khi chuyển nhượng các bên không đo đạc cụ thể mà chỉ chỉ đất trên thực tế và đo tạm bằng tay thì phía Đông giáp Quốc lộ 14 dài khoảng 23m. Khi chuyển nhượng có viết giấy tay, giấy do bà K giữ...” (bút lục số 99). (3)Tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 03/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đối với ông Võ Đình D, thể hiện (lời trình bày của ông D): “... Chúng tôi có chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai cho ông V, bà K hai lần, một lần là khoảng 11m mặt đường Quốc lộ 14 với giá chuyển nhượng là 10.000.000đ, hai bên có viết giấy tay do bà khuyên, ông V giữ, lần thứ hai chúng tôi chuyển nhượng là 7m mặt đường Quốc lộ 14... Tổng diện tích đất mà ông bà (D, X) chuyển nhượng cho ông V, bà K là bao nhiêu thì chúng tôi không rõ, vì thời điểm chuyển nhượng không đo đạc chính xác mà chỉ đo thủ công theo mặt đường Quốc lộ 14 có chiều dài khoảng 20 đến 23m, nhưng không vượt quá 23m mặt đường Quốc lộ 14 ...” (bút lục số 166, 167). (4)Tại Biên bản đối chất ngày 16/01/2019 do Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai lập, thể hiện (lời trình bày của ông D, bà X): “... Đúng là vợ chồng tôi có chuyển nhượng đất cho ông V, bà K 02 lần. Lần đầu là thỏa thuận chuyển nhượng không nhớ về thời gian, giá chuyển nhượng là 10.000.000đ, diện tích chuyển nhượng không rõ, khoảng 11 đến 13m mặt đường Quốc lộ 14, chiều sâu không nhớ rõ, theo bờ rào có viết giấy tay và bên mua là ông V, bà K giữ giấy. Lần hai là đổi máy bơm nước lấy đất, diện tích đo bằng bước chân khoảng 7m, đo dư ra khoảng dưới 10m mặt đường Quốc lộ 14, chiều sâu khoảng 18- 20m, giá trị khoảng 6.000đ, hai bên có viết giấy tay, bên mua giữ. Tổng hai lần chuyển nhượng là khoảng 22-23m mặt đường Quốc lộ 14, chiều sâu 18-20m... (bút lục số 174 đến 176). (5)Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/6/1999, ông Võ Đình D, bà Trần Thị X chuyển nhượng cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K 175m2 (7m x 25m), có thể hiện tứ cận. Hợp đồng có xác nhận của chính quyền địa phương (bút lục số 139).

Sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Trần Đặng V làm Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đề ngày 02/11/1999, gửi UBND xã I, có xác nhận của chính quyền địa phương, thể hiện: “... Thửa đất xin đăng ký là thửa số 121, tờ bản đồ số 17, địa danh làng K, diện tích 400m2, mục đích sử dụng là đất ở...” (bút lục số 280). Tại Quyết định số 11/2000/QĐ-UBND ngày 18/7/2000 của UBND huyện C, về việc cấp GCNQSDĐ xã I, thể hiện: “... Cấp GCNQSDĐ cho 1.311 hộ gia đình, cá nhân đủ điều kiện theo đề nghị của UBND xã I, có danh sách kèm theo. Trong đó, có ông Trần Đặng V số thứ tự 102, diện tích 400m2, thửa số 121, tờ bản đồ số 17...” (bút lục số 192 đến 194). Ngày 18/7/2000, UBND huyện C cấp GCNQSDĐ số R 362807 cho ông Trần Đặng V, đối với diện tích 400m2, thửa số 121, tờ bản đồ số 17, mục đích sử dụng đất ở, thời hạn sử dụng lâu dài (bút lục số 182). Hơn nữa, trong quá trình cùng sử dụng đất, ông Trần Đặng V và ông Võ Đình D đều không khiếu nại, tranh chấp với nhau về diện tích đất mà các bên đang sử dụng và được cấp GCNQSDĐ cùng năm 2000; trong đó, ông D được cấp 191m2 và ông V được cấp 400m2.

Với những nội dung được phân tích nêu trên, có căn cứ khẳng định: Ông Võ Đình D có chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Đặng V hai lần và ông V đã được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích 400m2 đất, tại thửa số 121, tờ bản đồ số 17, địa chỉ thôn K, xã I, huyện C là có căn cứ.

Đối với kháng cáo của bị đơn về nội dung bản án sơ thẩm buộc ông V, bà K thanh toán cho ông S 50.000.000đ tiền công sức gìn giữ, tôn tạo làm tăng giá trị của đất và nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản. Xét thấy, với những nội dung được phân tích nêu trên thấy rằng, bản án sơ thẩm nhận định và đã quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; đồng thời, chấp nhận phản tố của bị đơn, buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải trả lại cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K 80,51m2 đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai là có căn cứ. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn 50.000.000đ tiền công sức gìn giữ, tôn tạo làm tăng giá trị của đất và buộc bị đơn chịu ½ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là không có căn cứ. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết đối với một số cây ăn quả (01 cây đu đủ đã có trái; 01 cây xoài trồng mới năm thứ hai, thứ ba; 01 cây nhãn trồng mới năm thứ hai, thứ ba) do ông S trồng trên diện tích 80,51m2 đất có giá trị là 262.000đ là thiếu sót, chưa giải quyết triệt để vụ án; cũng như giải quyết về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với tài sản trên đất, phần thanh toán công sức tôn tạo, làm tăng giá trị đất là không đúng. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K, sửa bản án sơ thẩm và tính lại án phí sơ thẩm, xử lý tài sản trên diện tích 80,51m2 đất cho phù hợp.

Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày giữ nguyên nội dung tự nguyện hỗ trợ nguyên đơn 10.000.000đ. Đồng thời, đồng ý thối trả cho ông S giá trị một số cây ăn quả do ông S trồng trên diện tích 80,51m2 đất là 262.000đ (Hai trăm sáu mươi hai ngàn đồng).

[4] Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm hôm nay, các bên đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới. Căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm và với những nội dung được phân tích tại các mục [2], [3] nêu trên, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ; chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K là có căn cứ. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Đình D, bà Trần Thị X; chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K. Sửa Bản án sơ thẩm.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và ông Võ Đình D, bà Trần Thị X phải chịu theo quy định của pháp luật. Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ và của ông Võ Đình D, bà Trần Thị X; chấp nhận kháng cáo của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K. Sửa Bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ Điều 26; Điều 37; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 40; khoản 1 Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 163; Điều 164; Điều 166 của Bộ luật Dân sự. Điều 166; Điều 167; Điều 170 và Điều 203 của Luật Đất đai. Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

2.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ về việc buộc ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K trả lại 127,8m2 đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; có tứ cận: Phía Đông giáp đất ông V và bà K cạnh dài 9,35m, phía Tây giáp Quốc lộ 14 cạnh dài 9,35m, phía Nam giáp đất ông V, bà K đang sử dụng cạnh dài 13,62m, phía Bắc giáp đất ông sinh, bà Đ đang sử dụng cạnh dài 13,72m.

2.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ về việc yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 11/2000/QĐ-UB ngày 18/7/2000 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xã I đối với phần cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Đặng V và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 362807 do UBND huyện C cấp ngày 18/7/2000 cho ông Trần Đặng V.

2.3. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K. Buộc ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải trả lại cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K 80,51m2 đất tại thôn K, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai; có tứ cận: Phía Đông giáp đất của ông S, bà Đ cạnh dài 5,5m, phía Tây giáp Quốc lộ 14 cạnh dài 6,3m, phía Nam giáp đất của ông V, bà K dài 13,72m, phía Bắc giáp đất của ông S, bà Đ dài 13,78m.

2.4. Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K có nghĩa vụ thối trả cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 262.000đ (Hai trăm sáu mươi hai ngàn đồng). Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K có quyền sở hữu đối với 01 cây đu đủ đã có trái; 01 cây xoài trồng mới năm thứ hai, thứ ba; 01 cây nhãn trồng mới năm thứ hai, thứ ba trên diện tích 80,51m2 đất được giao cho ông V, bà K.

2.5. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K về việc hỗ trợ cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

3. Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 10.200.000đ. Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K đã nộp 7.200.000đ; ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ đã nộp 3.000.000đ. Do vậy, ông Lê Văn S và bà Nguyễn Thị Đ có nghĩa vụ thanh toán cho ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ 7.200.000đ (Bảy triệu hai trăm ngàn đồng).

4. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 57.967.200đ x 5% là 2.898.000đ. Ông S, bà Đ đã nộp tạm ứng 1.500.000đ theo Biên lai thu số 0002327 ngày 12/4/2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai, nên ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ còn tiếp tục phải nộp 1.398.000đ. Hoàn trả cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K số tiền 1.500.000đ đã nộp theo Biên lai thu số 0000773 ngày 21/01/2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.

5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K không phải chịu. Ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị Đ phải chịu 300.000đ và ông Võ Đình D, bà Trần Thị X phải chịu phải chịu 300.000đ; được trừ vào 300.000đ ông S, bà Đ đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011631 ngày 21/10/2020 và 300.000đ ông D, bà X đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011638 ngày 09/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai. Hoàn trả cho ông Trần Đặng V, bà Nguyễn Thị K số tiền 300.000đ đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011636 ngày 04/11/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền nêu trên, người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2021/DS-PT ngày 29/04/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt

Số hiệu:130/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về