Bản án 130/2019/DS-ST ngày 19/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 130/2019/DS-ST NGÀY 19/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 99/2019/TLST-DS, ngày 03 tháng 6 năm 2019, về việc tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2019/QĐXXST-DS, ngày 12 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 74/2019/QĐST-DS ngày 29 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn M. (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Tân Phú A, thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Ông Lê Trường N (Tên gọi khác: B). (Vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Ấp 4, xã Vị Tân, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

Địa chỉ tạm trú: Khu vực 7, phường IV, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện gửi Tòa án và trong quá trình xét xử vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Tấn M trình bày: Vào ngày 09/02/2018, ông Nguyễn Tấn M có bán cho anh Lê Trường N (B) số lượng 05 con trâu và bò, với tổng số tiền là 81.000.000 đồng. Anh Lê Trường N hẹn 02 tuần sau sẽ trả đủ tiền nhưng không thực hiện mà hẹn hết lần này đến lần khác. Đến ngày 11/8/2018 anh N có trả được 8.000.000 đồng, còn nợ lại 73.000.000 đồng đến nay không trả tiếp. Nay ông Nguyễn Tấn M khởi kiện yêu cầu anh Lê Trường N phải có trách nhiệm trả số tiền mua bán còn nợ lại là 73.000.000 đồng. Không yêu cầu tính lãi.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Tấn M giữ nguyên yêu cầu như trước đây.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn là anh Lê Trường N (B) đã được tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ nhưng đều vắng mặt, nên chưa trình bày ý kiến và chưa đưa ra yêu cầu của mình. Tại phiên tòa bị đơn là anh Lê Trường N vẫn vắng mặt không có lý do.

Kèm theo đơn khởi kiện, nguyên đơn ông Nguyễn Tấn M có nộp cho Tòa án tài liệu chứng cứ là biên bản hoà giải của khu vực 7, phường IV, thành phố Vị Thanh ngày 28/9/2018. Anh Lê Trường N không có giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Nguyễn Tấn M khởi kiện đối với anh Lê Trường N (B) yêu cầu trả số tiền theo hợp đồng mua bán còn nợ nên Tòa xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Lê Trường N (B) có nơi cư trú khi xác lập giao dịch tại khu vực 7, phường IV, thành phố Vị Thanh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp Hội đồng xét xử xét thấy: Anh Lê Trường N có hợp đồng mua bán tài sản (trâu, bò) với ông Nguyễn Tấn M, đã nhận của ông M tổng cộng 05 con trâu, bò với tổng giá trị là 81.000.000 là vấn đề có thật, do được anh Lê Trường N thừa nhận trong buổi hoà giải tại khu vực 7, phường IV, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang ngày 28/9/2018, nhưng đến nay theo thừa nhận của ông Nguyễn Tấn M thì anh N mới trả được số tiền là 8.000.000 đồng, còn nợ lại 73.000.000 đồng, hiện N vẫn chưa thanh toán tiếp số tiền này là vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Tòa án cũng đã tạo điều kiện cho các đương sự đến Tòa án hòa giải để trình bày và thỏa thuận với nhau về số tiền nợ nhưng anh Lê Trường N đều vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được. Anh Lê Trường N cũng không cung cấp cho Tòa án chứng cứ gì để chứng minh là đã trả hết nợ cho ông Nguyễn Tấn M. Căn cứ khoản 1 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định “đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Do anh Lê Trường N không đưa ra được chứng cứ để chứng minh là không còn nợ ông Nguyễn Tấn M, nên Hội đồng xét xử xác định việc khởi kiện của ông Nguyễn Tấn M đối với anh Lê Trường N là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về phần tiền lãi suất: Tại phiên tòa ông Nguyễn Tấn M không yêu cầu tính lãi chậm trả đối với số nợ trên là trên cơ sở tự nguyện và phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị anh Lê Trường N phải chịu. Nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5] Đối với anh Lê Trường N dù đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ và triệu tập đến dự phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 91, 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Các Điều 430, 434, 440 Bộ luật dân sự 2015.

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Buộc anh Lê Trường N (B) phải có trách nhiệm trả cho ông Nguyễn Tấn M số tiền theo hợp đồng mua bán tài sản còn nợ là 73.000.000 (Bảy mươi ba triệu) đồng.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc anh Lê Trường N (Bạch) phải chịu 3.650.000 (Ba triệu sáu trăm năm mươi nghìn) đồng. Ông Nguyễn Tấn M được nhận lại 1.825.000 (Một triệu tám trăm hai mươi lăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0020387 ngày 03/6/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Ông Nguyễn Tấn M được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Lê Trường N (B) vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 130/2019/DS-ST ngày 19/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:130/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về