TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN-TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 129/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 133/2020/HSST ngày 02/11/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2020/QĐXXST-HS ngày 12/11/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: PHẠM MINH S, sinh năm 1977 tại TP. Quy Nhơn; Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, phường C, TP. Q, Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Đình C (chết) và bà: Phạm Thị L (chết); Vợ, con: Chưa có;
Tiền án: - Ngày 12/01/2012, bị Tòa án nhân dân Tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 08/10/2012.
- Ngày 03/01/2017, bị Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 06/4/2017.
- Ngày 18/6/2018, bị Tòa án nhân dân Tp Quy Nhơn, xử phạt 30 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong ngày 25/8/2020.
Tiền sự: Không;
Nhân thân: - Ngày 01/6/2002, bị Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong ngày 31/11/2002.
- Ngày 04/5/2004, bị Tòa án nhân dân huyện An Lão, tỉnh Bình Định xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 15/4/2005.
- Ngày 21/4/2010, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, chấp hành xong ngày 01/9/2011; Bị bắt tạm giữ, tạm giam: Ngày 05/9/2020; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại:
Anh Võ H, sinh năm 1972 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ C, khu vực D, phường N, TP. Q, Bình Định.
- Người tham gia tố tụng khác:
Ông Trần Xuân S; ông Hoàng Việt D; chị Lê Thị N.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 25/8/2020, bị cáo Phạm Minh S chấp hành xong án phạt tù về thành phố Q sống lang thang, không có việc làm. Vào khoảng 17 giờ ngày 04/9/2020, bị cáo đi theo xe đưa tang đến nghĩa địa thuộc khu vực 7, phường N, TP Q để thăm mộ cha, mẹ. Tại đây, bị cáo S cởi quần dài, áo sơ mi của mình lau chùi mộ cha mẹ rồi ở trần, mặc quần đùi đi bộ về nhà. Khi đến đường Âu Cơ, bị cáo S thấy ông Trần Xuân S đi xe mô tô một mình ngang qua trước mặt, nên bị cáo S nhờ ông S chở về nhà tại phường C, TP. Q. Ông S chở bị cáo đến trước số nhà B đường C, phường S, TP Quy Nhơn thì dừng xe, bảo bị cáo xuống xe tự đi về. Bị cáo xuống xe đi bộ, khi đi đến trước nhà của anh Võ H (số nhà D, phường S, TP. Q), thấy trên vỉa hè trước nhà để 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ bạc, BKS 77X5-7727 có gắn sẵn chìa khóa trong ổ khóa xe, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Bị cáo S quan sát thấy đường vắng người qua lại, không ai để ý, nên lén lút đến chỗ xe mô tô bật chìa khóa khởi động rồi điều khiển xe chạy đi. Lúc này, cháu Võ Tư Minh Y (con gái anh H) đang đứng trên gác lửng trong nhà nhìn thấy sự việc nên hô hoán, gọi anh H nhưng bị cáo S đã chạy thoát. Bị cáo S sử dụng xe đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 05/9/2020 thì hết xăng, nên vào tiệm tạp hóa tại đường T, phường N, TP. Q của anh Hoàng Việt D đổ xăng. Do bị cáo S không có trả tiền mua xăng và có biểu hiện nghi vấn, nên anh D báo Công an phường N đến tạm giữ xe và đưa bị cáo S về trụ sở làm việc. Tại cơ quan Công an, bị cáo S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Ngày 11/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Tp Quy Nhơn, kết luận: Xe mô tô Sirius mang biển số 77X5-7727, số khung 6307Y-031308, số máy 5C63-031308, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại khoảng 50%, khảo sát giá tại thời điểm là 6.000.000 đồng.
Vật chứng thu giữ của vụ án gồm:
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 77X5-7727.
- 01 chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu đen.
Vào ngày 08/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an Tp Quy Nhơn đã ban hành Quyết định trả 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 77X5-7727, 01 chìa khóa xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu đen cho chủ sở hữu là anh Võ H, anh Võ H không yêu cầu bồi thường gì thêm.
- Tại bản cáo trạng số 127/CT-VKS ngày 02/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố Phạm Minh S về tội: “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Phạm Minh S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo Phạm Minh S từ 03 năm đến 04 năm tù.
Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.
Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Vào ngày 04/9/2020, tại số nhà số nhà D, phường S, TP Q, bị cáo Phạm Minh S lợi dụng anh Võ H sơ hở trong việc quản lý tài sản, đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 77X5-7727 của anh Võ H có trị giá 6.000.000 đồng.
Bị cáo Phạm Minh S đã bị Tòa án đưa ra xét xử nhiều lần về tội “trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, do tham lam, xem thường pháp luật mới chấp hành xong 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, trong thời gian 11 ngày bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo Phạm Minh S có 03 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích tiếp tục phạm tội do cố ý. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Phạm Minh S về tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu đã nhiều lần bị Tòa án đưa ra xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo an tâm cải tạo tốt.
[5] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Võ H đã nhận lại xe mô tô bị chiếm đoạt, bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo Phạm Minh S bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Minh S 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/9/2020.
2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Phạm Minh S phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án 129/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 129/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về