TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 129/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 389/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 138/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020, và Quyết định hoãn phiên tòa số 169/2020/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà T - Sinh năm 1985 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn X, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Bị đơn: Ông T1 – Sinh năm 1984 (vắng mặt).
Địa chỉ: Buôn Y, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà T trình bày có nội dung như sau:
Tôi (T) và ông T1 tìm hiểu và tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 20/8/2004.
Quá trình chung sống, tôi và ông T1 phát sinh mâu thuẫn, cãi vã do ông T1 ham mê cờ bạc, không lo làm ăn, không quan tâm chăm lo gia đình. Mặc dù tôi đã nhiều lần bỏ qua nhưng ông T1 không thay đổi. Nay nhận thấy mâu thuẫn đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi xin được ly hôn với ông T1.
- Về con chung: Tôi và ông T1 có một con chung là cháu N – Sinh ngày 13/6/2004. Tôi có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu N cho đến tuổi trưởng thành. Tôi là người thường xuyên trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu N. Hiện cháu N đang sống cùng với tôi.
- ề cấp dưỡng nuôi con chung: Tôi không yêu cầu ông T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Tôi có thu nhập đảm bảo cho việc nuôi duỡng con mà không yêu cầu cấp dưỡng.
- Về tài sản chung và nợ chung: Tôi và ông T1 tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Đối với bị đơn ông T1, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần theo quy định của pháp luật nhưng ông T1 vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn bà T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông T1. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về trình tự, thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do lần thứ hai; nguyên đơn bà T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự là phù hợp theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung:
Xét về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông T1 đi đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 20/8/2004 (Đăng ký kết hôn số 91, quyển số 02/2003, ngày 20/8/2004), đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Quá trình chung sống, bà T và ông T1 xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, nguyên nhân theo bà T trình bày là do ông T1 ham mê cờ bạc, không quan tâm chăm lo cho gia đình. ì vậy, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông T1.
Kết quả xác minh tại địa phương cho biết: Quá trình chung sống tại địa phương, do bất đồng quan điểm sống nên bà T và ông T1 phát sinh mâu thuẫn, cãi vã. Nay bà T yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết cho ly hôn với ông T1 thì đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông T1 là không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T là phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Xét về con chung: Bà T và ông T1 có một con chung là cháu N– Sinh ngày 13/6/2004. Bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N cho đến tuổi trưởng thành. Hội đồng xét xử xét thấy cháu N hiện đang sống cùng bà T, cháu N cũng có nguyện vọng được sống cùng với bà T. Do đó vì quyền lợi cũng như đảm bảo sự phát triển tâm sinh lý của trẻ, cần giao cháu N cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 144; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Căn cứ Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình:
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận đơn khởi kiện về yêu cầu xin ly hôn của bà T đối với ông T1. Về quan hệ hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông T1.
Về con chung: Giao con chung cháu N – Sinh ngày 13/6/2004 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi).
Ông T1 có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T không yêu cầu ông T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Về án phí: Bà T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà T đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố uôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0007970 ngày 22 tháng 5 năm 2020.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án 129/2020/HNGĐ-ST ngày 28/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 129/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về