Bản án 129/2019/HNGĐ-ST ngày 20/02/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 129/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ LY HÔN

Trong ngày 20 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 373/2017/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 08 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 604/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy V, sinh năm 1979, quốc tịch: Việt Nam.

Địa chỉ: Số 15 Đường Q, Khu phố Q, phường B, Quận Q, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

- Bị đơn: Ông Vu, Martin T, sinh năm 1972, quốc tịch: Hoa Kỳ. Địa chỉ: Marloborough Ave, APT # San Diego, CA 92105, USA.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 31/07/2017 và Bản tự khai ngày 30/10/2017, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Vu, Martin T kết hôn vào năm 2007, căn cứ theo Giấy đăng ký kết hôn số 2155 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/06/2007. Sau khi kết hôn, do không cùng quan điểm, tư tưởng nên bà và ông Vu, Martin T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Khoảng thời gian 05 năm trở lại đây, bà và ông Vu, Martin T càng ngày càng ít liên lạc với nhau, tình cảm càng phai nhạt, bà và ông Vu, Martin T đều có tâm lý nghĩ rằng cuộc hôn nhân này khó có thể đoàn tụ, dẫn đến sự mệt mỏi và chán nản. Nay nhận thấy hôn nhân đã trở nên vô nghĩa. không hạnh phúc, không thể tiếp tục duy trì nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Vu, Martin T.

Về con chung: Bà khai giữa bà và ông Vu, Martin T không có con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà khai giữa bà và ông Vu, Martin T không có tài sản chung, không có nợ chung.

Đối với bị đơn là ông Vu, Martin T hiện đang cư trú tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Tòa án đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và yêu cầu cung cấp lời khai của ông Vu, Martin T về việc bà Nguyễn Thị Thúy V yêu cầu ly hôn với ông Vu, Martin T, nhưng ông Vu, Martin T không cung cấp cho Tòa án.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy V có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tòa án đã tiến hành thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài để tống đạt thông báo về ngày giờ mở phiên tòa đối với ông Vu, Martin T nhưng ông Vu, Martin T vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với các đương sự vắng mặt, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Bà Nguyễn Thị Thúy V và ông Vu, Martin T từ lâu đã không còn chung sống cũng như không còn liên lạc với nhau, cho thấy quan hệ vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Thúy V và ông Vu, Martin T không tồn tại trên thực tế, mục đích hôn nhân không đạt được nên có cơ sở để chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Thúy V. Về con chung, về tài sản chung và về nợ chung bà Nguyễn Thị Thúy V khai không có nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định:

Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Ngày 31/07/2017, bà Nguyễn Thị Thúy V đang cư trú tại Việt Nam có đơn xin ly hôn với ông Vu, Martin T hiện đang cư trú tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Khoản 3 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về tố tụng:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy V có yêu cầu xin được vắng mặt tại tất cả các phiên tòa theo Đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12/10/2018 của bà Nguyễn Thị Thúy V.

Ngày 29/01/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 86/UTTPDS-TA30 về việc tương trợ tư pháp gửi Bộ Tư pháp để ủy thác tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc tống đạt Thông báo về việc thụ lý và ngày giờ 2 mở phiên họp, phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm đối với ông Vu, Martin T đang cư trú tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, đến ngày 31/10/2018 là ngày Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Vu, Martin T, ông Vu, Martin T cũng không có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm lần thứ nhất, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hoãn phiên tòa.

Ngay sau khi hoãn phiên tòa, ngày 02/11/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục gửi Công văn số 6740/TATP-TGĐVNCTN cho Bộ Tư pháp về việc đề nghị thông báo kết quả ủy thác tư pháp, nhưng đến nay đã hết thời hạn theo luật định mà Tòa án vẫn không nhận được văn bản thông báo về kết quả thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp đối với ông Vu, Martin T.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228, Khoản 4 và Điểm c Khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Thúy V và ông Vu, Martin T có quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn theo quy định. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp và thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Căn cứ vào các chứng cứ mà Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thu thập được từ Bản tự khai của bà Nguyễn Thị Thúy V, có cơ sở để xác định rằng mục đích của hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Thúy V và ông Vu, Martin T đã không đạt được. Về phía ông Vu, Martin T, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp ra nước ngoài hợp lệ để tống đạt Thông báo về việc thụ lý và ngày giờ mở phiên họp, phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm cho ông Vu, Martin T nhưng ông Vu, Martin T không có văn bản trả lời hay đơn đề nghị xét xử vắng mặt, điều này chứng tỏ ông Vu, Martin T không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa. Do đó, việc bà Nguyễn Thị Thúy V khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét giải quyết cho bà Nguyễn Thị Thúy V được ly hôn đối với ông Vu, Martin T là có căn cứ để chấp nhận.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thúy V khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thúy V khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét giải quyết.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thúy V là nguyên đơn yêu cầu ly hôn nên căn cứ vào Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, bà Nguyễn Thị Thúy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228, Khoản 4 và Điểm c Khoản 5 Điều 477 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2016;

3 Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57 và Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thúy V như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thúy V được ly hôn với ông Vu, Martin T. Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Thúy V và ông Vu, Martin T chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Giấy chứng nhận kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn số 2155, quyển số 09, ngày 27/06/2007 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thúy V khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thúy V khai không có, nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Thúy V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà bà Nguyễn Thị Thúy V đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0047436 ngày 16/08/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Thúy V đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

5. Về quyền kháng cáo bản án:

Bà Nguyễn Thị Thúy V vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, nên quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đối với bà Nguyễn Thị Thúy V là 15 ngày, kể từ ngày bà Nguyễn Thị Thúy V được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Ông Vu, Martin T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

298
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 129/2019/HNGĐ-ST ngày 20/02/2019 về ly hôn

Số hiệu:129/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về