TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 129/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 26 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 238/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2018/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1984. (có mặt) Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An.
Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn H, sinh năm 1980. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp R, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 10 tháng 01 năm 2018 và những lời khai tiếp theo tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Tấn H chung sống với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào năm 2012. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, chị và anh H không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên chị và H đã ly thân từ tháng 02 năm 2018 đến nay. Tháng 12 năm 2017, chị có khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh H nhưng chị và anh H hàn gắn trở lại, chị rút lại toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Nay, dù đã cố gắng nhưng chị và anh H không thể hàn gắn được, đời sống hôn nhân không thể tiếp tục nên chị xin ly hôn với anh Nguyễn Tấn H.
Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh H có 01 con chung là Nguyễn Hoàng Thiên P, sinh ngày 21/5/2012, con đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng anh H vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Trần Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Tấn H; anh H có hộ khẩu thường trú tại ấp R, xã T, huyện Đ, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Tấn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh H chung sống với nhau vào năm 2011 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào năm 2012 nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, chị T cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, chị và anh H không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn nên chị và H đã ly thân từ tháng 02 năm 2018 đến nay. Mâu thuẫn giữa anh chị cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với anh Nguyễn Tấn H, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng anh H không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Tại phiên tòa hôm nay, anh H vẫn vắng mặt, chứng tỏ anh không có thiện chí để hàn gắn trong khi thời gian ly thân đã lâu. Mặt khác, tháng 12 năm 2017 chị T có nộp đơn yêu cầu ly hôn với anh H, vụ án đã được Tòa án thụ lý giải quyết nhưng chị T và anh H tự nguyện hàn gắn lại và chị T rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện; nay chị T tiếp tục khởi kiện yêu cầu ly hôn, cho thấy dù đã cố gắng nhưng anh chị không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng và ly thân từ tháng 02 năm 2018 đến nay.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của anh chị đã không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Chị T trình bày chị và anh H có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên P, sinh ngày 21/5/2012. Từ khi ly thân đến nay, chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Đối với anh H, dù đã được thông báo về yêu cầu của chị T về vấn đề con chung nhưng anh không đến Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.
Xét thấy, từ khi chị T và anh H xa nhau đến nay, chị T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định cho con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Tại phiên tòa, chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về tài sản chung: Chị T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh H không
[6]. Về nợ chung: Chị T trình bày không có; anh H không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị T đối với anh Nguyễn Tấn H về việc “Ly hôn”.
- Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Tấn H.
- Về con chung: Chị Trần Thị T được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên P, sinh ngày 21/5/2012. Anh Nguyễn Tấn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị T không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con
2. Về án phí: Chị Trần Thị T chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002379 ngày 16/3/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 129/2018/HNGĐ-ST ngày 26/06/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 129/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về