TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 129/2017/HS-PT NGÀY 10/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 10 tháng 11 năm 2017, tại Tòa án nhân dân huyện T, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 151/2017/TLPT-HS ngày 18 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Trần Thị Thu H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 49/2017/HS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Bị cáo có kháng cáo:
Trần Thị Thu H, sinh ngày 28 tháng 9 năm 1971; nơi sinh tại Tây Ninh; nơi cư trú: Nhà số 14/2, ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Giáo viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; cha tên Trần Văn M (chết); mẹ tên Phạm Thị R, sinh năm 1942; chồng tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1968; có 01 con (sinh năm 2008). Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 26/12/2016 bị Công an phường S, thành phố TN, tỉnh Tây Ninh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 03/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” số tiền phạt là 2.000.000 đồng; nhân thân: Bản án số 82/2012/HSST ngày 28/8/2012 của Tòa án nhân dân thị xã TN (nay là thành phố TN) xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo tại ngoại (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 12/4/2017, bị cáo Trần Thị Thu H điều khiển xe mô tô đến nhà chị Trần Thị Kim L tại ấp Đ, xã T, huyện T, tỉnh Tây Ninh để xin việc. Do nhà chị L không khóa cửa nên H tự ý vào nhà, chị L ở phía sau nhà nhìn thấy và bảo H ở phía trước chờ. Lúc này nhìn thấy phòng ngủ của chị L mở cửa nên H lén lút đi vào lấy số tiền 2.000.000 đồng để trên bàn trang điểm thì bị chị L bắt quả tang.
Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh đã xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Bản án còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 22 tháng 9 năm 2017, bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hìnhphạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo bổ sung kháng cáo xin được hưởng ántreo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về vụ án: Bị cáo H kháng cáo nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thu H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị cáo Trần Thị Thu H có hành vi lén lút vào phòng ngủ của chị Trần Thị Kim L trộm cắp số tiền 2.000.000 đồng nhưng bị chị L phát hiện bắt quả tang.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu H phạmtội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội, kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con nhỏ và tiếp tục đi dạy.
[3] Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xác định bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự là thành khẩn khai báo. Do đó, mức hình phạt 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng là khởi điểm khung hình phạt, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo, thấy rằng:
Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp các tài liệu thể hiện có công trong sự nghiệp giáo dục, được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng thưởng kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục, nhiều năm liền từ 2008 đến năm 2017 đạt danh hiệu Lao động tiên tiến. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân không tốt, đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo vẫn không có thái độ hối cải, tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp là thể hiện bị cáo xem thường pháp luật. Nên cần có thời gian cách ly để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Thị Thu H phải chịu200.000 đồng (hai trăm nghìn) .
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thu H;
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2017/HSST ngày 08 tháng9 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh.
Tuyên bố bị cáo Trần Thị Thu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Thị Thu H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Thị Thu H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn).
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 129/2017/HS-PT ngày 10/11/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 129/2017/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về