Bản án 128/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 128/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 22 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 799/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 165/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 127/2019/QĐST – HNGĐ ngày 16/10/2019, giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Ông Lương Như L, sinh năm 1980; thường trú: 65B đường N, khu phố P, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, có đơn xin giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Phăng X, sinh năm 1982; thường trú: 65B đường N, khu phố P, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/8/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn ông Lương Như L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Phạm Thị Phăng X tự nguyện chung sống từ năm 2005, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh B vào ngày 13/5/2005 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 170/KH quyển số 01/04). Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh từ việc vợ chồng không hiểu nhau, không có tiếng nói chung, không đồng quan điểm sống nên thường cãi nhau. Từ khoảng tháng 4/2019 đến nay vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Nay ông L xác định không còn tình cảm với bà X nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lương Tuệ K, sinh ngày 09/11/2005 và Lương Hải N, sinh ngày 18/3/2016. Hiện nay hai cháu đang sống chung với bà X nên khi ly hôn ông L đồng ý giao hai con chung cho bà X trực tiếp nuôi dưỡng, ông L không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Ông Dương Như L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn bà Phạm Thị Phăng X: Quá trình tố tụng, bà Phạm Thị Phăng X đã được Tòa án thông báo thụ lý, triệu tập tham gia phiên h p kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 26/9/2019; tham gia phiên tòa vào các ngày 16/10/2019 và ngày 22/10/2019, tuy nhiên bà X có nhận giấy triệu tập của Tòa án nhưng vắng mặt không có lý do, không cung cấp chứng cứ và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông L.

- Tại biên bản xác minh của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An tại Hội liên hiệp phụ nữ phường T, thị xã D thể hiện: Hội Liên hiệp phụ nữ phường T không nhận được đơn hay yêu cầu hòa giải về tình trạng hôn nhân của anh Lương Như L và chị Phạm Thị Phăng X nên không biết được giữa hai anh chị có mâu thuẫn gì, nguyên nhân mâu thuẫn xuất phát từ đâu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

Về quan hệ hôn nhân, ông L và bà X có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình tố tụng, bà X không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, không cung cấp lời khai và chứng cứ về quan hệ hôn nhân nên có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng ông L và bà X là trầm trọng, ông L có yêu cầu ly hôn là có căn cứ. Về con chung, tại đơn khởi kiện ngày 05/8/2019, ông L có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bà X thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng kể từ thời điểm vợ chồng sống ly thân đến nay hai con đang sống cùng bà X nên ông Lân đồng ý giao hai con chung cho bà X trực tiếp nuôi dưỡng, ông L không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà X vắng mặt, không trình bày ý kiến nên yêu cầu của ông L về vấn đề nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không tranh chấp, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhận định:

[1] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tòa án đã triệu tập hợp bà Phạm Thị Phăng X để tham gia phiên tòa vào các ngày 16/10/2019 và ngày 22/10/2019 nhưng bà X vắng mặt không rõ lý do. Ngày 16/9/2019 nguyên đơn ông Lương Như L nộp đơn từ chối hòa giải và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xét xử vắng mặt ông L và bà X.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Lương Như L và bà Phạm Thị Phăng X là vợ chồng, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh B vào ngày 13/5/2005 (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 170/KH quyển số 01/04) nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Ông L xác định trong quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống được với nhau và yêu cầu được ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập bà Phạm Thị Phăng X đến làm việc nhưng bà X đều vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đồng thời, bà X cũng không có văn bản nào thể hiện thiện chí đưa ra phương pháp hàn gắn mối quan hệ giữa bà và ông L nên có cơ sở xác định cuộc sống hôn nhân của ông L và bà X phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông L yêu cầu được ly hôn với bà X là phù hợp với quy định của Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ chấp nhận.

[4] Về con chung: Ông L và bà X có 02 con chung là cháu Lương Tuệ K, sinh ngày 09/11/2005 và Lương Hải N, sinh ngày 18/3/2016. Hiện nay hai cháu đang sống chung với bà X nên khi ly hôn ông L đồng ý giao hai con chung cho bà X trực tiếp nuôi dưỡng, ông L không cấp dưỡng nuôi con. Căn cứ vào lời khai của cháu Lương Tuệ K cũng có nguyện vọng được ở với mẹ và em, bà X vắng mặt, không trình bày ý kiến nên yêu cầu của ông L về vấn đề nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em sau khi ly hôn cần giao con chung tên Lương Tuệ K và Lương Hải N cho bà X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Ông Lương Như L không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thị xã D, tỉnh Bình Dương.

[7] Về án phí: Ông Lương Như L phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điểm a Khoản 5 và Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Ông Lương Như L được ly hôn với bà Phạm Thị Phăng X (Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 170/KH quyển số 01/04 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh B cấp ngày 13/5/2005).

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Lương Tuệ K, sinh ngày 09/11/2005 và Lương Hải N, sinh ngày 18/3/2016 cho bà Phạm Thị Phăng X trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Lương Như L không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông Lương Như L và bà Phạm Thị Phăng X đều có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai được quyền cản trở ông bà thực hiện quyền này. Trường hợp ông Lương Như L lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc bà Phạm Thị Phăng X nuôi con thì bà X có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Ông Lương Như L phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng đã nộp theo Biên lai số 0029067 ngày 08/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 128/2019/HNGĐ-ST ngày 22/10/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:128/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về